Ashui.com

Friday
Apr 19th
Home Chuyên mục Năng lượng - Môi trường Thông cáo chung của Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thứ III

Thông cáo chung của Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thứ III

Viết email In

Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thứ III đã được tổ chức vào ngày 18/11/2010 tại thủ đô Hà Nội. Hội nghị có sự tham dự của gần 1.000 đại biểu, là đại diện lãnh đạo các Ban Đảng, Quốc hội, các bộ, ban, ngành của Chính phủ, cơ quan đoàn thể ở Trung ương, đại diện một số Đại sứ quán và các tổ chức quốc tế tại Việt Nam, đại diện lãnh đạo Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, Sở Tài nguyên và Môi trường, Chi cục Bảo vệ môi trường của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đông đảo các nhà khoa học đến từ các trường đại học, viện nghiên cứu, đại diện các doanh nghiệp trong và ngoài nước và các cơ quan thông tấn báo chí.



Nằm trong chuỗi các hoạt động bên lề, trong ngày 17/11/2010 đã diễn ra nhiều sự kiện quan trọng: Hội nghị khoa học chuyên đề về: Công nghệ môi trường, Quản lý môi trường, Đa dạng sinh học (với sự tham gia của gần 600 đại biểu là các nhà quản lý, nhà khoa học ở Trung ương và địa phương; đã có 258 báo cáo tham luận gửi về Hội nghị); Hội nghị xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; Triển lãm các thành tựu về công tác bảo vệ môi trường Việt Nam năm 2010; Lễ Tuyên dương các điển hình tiên tiến về bảo vệ môi trường năm 2010. Kết quả của các sự kiện nói trên được coi là những kết quả quan trọng của Hội nghị.

Hội nghị đã tiến hành tổng kết, đánh giá những kết quả đạt được của công tác bảo vệ môi trường trong giai đoạn 5 năm qua, thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, khuyết điểm, phân tích những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, từ đó xác định phương hướng và giải pháp cho công tác bảo vệ môi trường giai đoạn 5 năm tới. Hội nghị ghi nhận và quán triệt ý kiến chỉ đạo của đồng chí Trương Vĩnh Trọng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ về những định hướng giải pháp về bảo vệ môi trường trong thời gian tới.

Hội nghị đã nghe các đồng chí đại diện lãnh đạo các cơ quan: Ban Tuyên giáo Trung ương, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm báo cáo về kết quả thực hiện Chỉ thị số 29-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


1. CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG

Hội nghị thống nhất cho rằng, trong thời gian qua, công tác bảo vệ môi trường nước ta đã có những thành tựu đáng khích lệ. Hệ thống văn bản pháp luật về môi trường đã có những thành công và ngày càng hoàn thiện. Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước môi trường được hình thành nhanh chóng. Hợp tác quốc tế về môi trường và bảo vệ môi trường liên tục được tăng cường. Với những thành công về thể chế và hoạt động nói trên, chúng ta đã từng bước kiểm soát và ngăn chặn được sự gia tăng ô nhiễm môi trường, bảo vệ môi trường sinh thái, hạn chế tác động xấu của môi trường đối với con người, tạo nền tảng và tiền đề quan trọng cho sự phát triển tiếp theo.

Bên cạnh những thành công đạt được, công tác quản lý nhà nước về môi trường còn có những hạn chế và khuyết điểm. Những hạn chế, khuyết điểm đó có ngay trong những ưu điểm, những thành công của chúng ta.

Về quan điểm và nhận thức, chúng ta chưa thực sự coi môi trường và bảo vệ môi trường phải gắn kết hữu cơ, không thể tách rời với phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, công tác bảo vệ môi trường có nhiều lúc bị xem nhẹ.

Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 cũng đã bộc lộ những khiếm khuyết ở chỗ có những điểm thiếu toàn diện và thiếu thực thi, dẫn đến những khó khăn trong quản lý, trong thanh tra, kiểm tra, đặc biệt đối với cán bộ quản lý môi trường ở địa phương.

Chúng ta còn thiếu những cán bộ quản lý nhà nước về môi trường có năng lực ở cấp trung ương cũng như địa phương, đặc biệt ở cấp quận/huyện và phường/xã. Mặt khác, sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường và liên quan đến môi trường chưa tốt. Ngoài ra, ý thức, trách nhiệm thực thi công vụ của một bộ phận cán bộ quản lý nhà nước về môi trường và liên quan đến môi trường chưa tốt, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả quản lý nhà nước về môi trường. Kinh phí, kỹ thuật cho công tác bảo vệ môi trường còn rất hạn chế.

Hội nghị nhất trí đề xuất việc phải có hệ thống các giải pháp đồng bộ, toàn diện và thực thi, từ các biện pháp nâng cao nhận thức, quan điểm, tầm nhìn đến việc bổ sung, chỉnh sửa các văn bản quy phạm pháp luật, kể cả việc sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 càng sớm, càng tốt, theo hướng cụ thể hơn, rõ hơn và rộng hơn.

Hội nghị nhấn mạnh các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội cần phải coi bảo vệ môi trường là nhiệm vụ thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Các hoạt động bảo vệ môi trường và hiệu quả của các hoạt động đó phải được coi là một trong những chỉ số quan trọng, có tính pháp lý, để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ nói chung của mọi tổ chức trong hệ thống.

Hội nghị đề nghị Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương nên sớm có chủ trương tăng biên chế cán bộ quản lý môi trường cấp quận/huyện, biên chế cán bộ quản lý môi trường chuyên trách ở cấp phường/xã; sớm tăng tỷ lệ % ngân sách cho BVMT và điều chỉnh lại cơ sở phân phối, sử dụng để bảo đảm có hiệu quả nhất, cố gắng đến năm 2015, tỷ lệ dành cho sự nghiệp môi trường bảo đảm ở mức 2% tổng chi ngân sách. Thường xuyên coi trọng công tác thanh tra và kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường. Sớm hình thành hệ thống quan trắc môi trường có tính quốc gia, đáp ứng các yêu cầu thống nhất, toàn diện, chính xác, cập nhật để theo dõi, đánh giá đúng mọi diễn biến môi trường, phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về môi trường. Tăng cường cơ chế liên kết và phối hợp tốt, trong đó có sự chia sẻ trách nhiệm và quyền hạn giữa các cơ quan trung ương với nhau, giữa các cơ quan trung ương và các địa phương và giữa các địa phương có liên quan. Tiếp tục tạo hành lang pháp lý và các điều kiện cần thiết để đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường; cần có các biện pháp gắn kết giữa quản lý nhà nước với công tác nghiên cứu và đào tạo để phát triển tốt nguồn nhân lực trong lĩnh vực môi trường và bảo vệ môi trường. Từng bước hình thành và phát triển văn hóa môi trường; tiếp tục suy nghĩ, đổi mới nội dung và phương pháp tuyên truyền về bảo vệ môi trường, để mọi người ý thức được rõ ràng là bảo vệ môi trường chính là tự bảo vệ mình.

2. VỀ CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG

Hội nghị thống nhất nhận định, phát triển công nghệ môi trường là nội dung quan trọng của phát triển công nghiệp môi trường. Do vậy, để phát triển thị trường công nghệ môi trường Việt Nam, trước hết phải có cơ chế khuyến khích chuyển giao công nghệ, đầu tư sản xuất trang thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường, ưu đãi sử dụng thiết bị và công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường được sản xuất ở trong nước. Hội nghị kiến nghị Chính phủ quan tâm, ban hành các chính sách khuyến khích phát triển công nghệ môi trường, hỗ trợ chuyển giao công nghệ môi trường, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ về môi trường; ban hành các chính sách khuyến khích về giá đối với năng lượng được làm ra từ việc xử lý chất thải, đơn giá xử lý chất thải để tạo điều kiện cho ngành công nghiệp môi trường phát triển; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về công nghệ môi trường cho cán bộ quản lý nhà nước về môi trường các cấp cũng như tăng cường hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo về môi trường, đặc biệt là về công nghệ môi trường để nâng cao hơn nữa chất lượng của công tác đào tạo này.

Cần đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ đốt và composting đối với chất thải rắn đô thị để thu hồi được năng lượng (phát điện), sản phẩm có ích (phân bón), cũng như giảm diện tích chôn lấp, tiết kiệm quỹ đất. Đối với chất thải rắn y tế, cần hạn chế biện pháp đốt để tránh phát sinh ô nhiễm không khí thứ cấp và nhanh chóng chuyển sang các công nghệ thân thiện với môi trường như khử khuẩn các chất thải lây nhiễm sau đó chôn lấp theo đúng xu hướng quốc tế hiện nay. Đối với việc xử lý chất thải nguy hại cần phải nghiên cứu theo hướng xử lý tập trung quy mô lớn và có thu hồi năng lượng theo các vùng, miền của Việt Nam và cần lựa chọn công nghệ xử lý chất thải phù hợp điều kiện của Việt Nam theo hướng ưu tiên tái chế. 

Kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ/ngành liên quan căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình ban hành các bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế kỹ thuật... làm cơ sở khoa học lý luận và pháp lý cho việc nghiên cứu, thẩm định và phát triển các công nghệ xử lý chất thải, tái chế chất thải được sản xuất trong nước hoặc được chuyển giao các công nghệ cao và nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài. Tăng cường đầu tư kinh phí hơn nữa cho bảo vệ môi trường nói chung và cho phát triển hhoa học về công nghệ môi trường nói riêng. Đặc biệt, cần quan tâm đầu tư cho các nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường trong các hoạt động bảo vệ môi trường.

Bộ Tài nguyên và Môi trường cần khẩn trương hoàn thiện và trình Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 16/2007/QĐ-TTg ngày 29 tháng 01 năm 2007 phê duyệt quy hoạch tổng thể mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia đến năm 2020 cho phù hợp với tình hình thực tế.

3. VỀ BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC

Hội nghị thống nhất nhận định, trong thời gian qua, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các tổ chức và cá nhân, công tác bảo tồn đa dạng sinh học đã đạt được những kết quả nhất định. Các hệ sinh thái, loài và nguồn gen được bảo vệ. Độ che phủ của rừng đang từng bước tăng lên. Hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên ngày càng được củng cố và phát triển. Hơn 50 loài động vật và hàng chục loài thực vật hoang dã được gây nuôi sinh sản, gieo trồng. Hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý đa dạng sinh học ngày càng hoàn thiện, đặc biệt sau khi Luật Đa dạng sinh học được Quốc hội thông qua. Hệ thống quản lý nhà nước về đa dạng sinh học được thiết lập và từng bước được củng cố, hoạt động khoa học công nghệ được đẩy mạnh. Nội dung bảo tồn đa dạng sinh học được lồng ghép trong các hoạt động tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường ở các cấp học. Nhiều chương trình nâng cao nhận thức về ĐDSH đã được triển khai thực hiện bởi các cơ quan quản lý nhà nước cấp trung ương và địa phương, các tổ chức chính trị, xã hội, các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế. Hợp tác quốc tế về bảo tồn đa dạng sinh học tiếp tục được mở rộng.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn nhiều tồn tại và thách thức đối với công tác bảo tồn đa dạng sinh học. Đa dạng sinh học vẫn trong xu hướng suy thoái nhanh. Các văn bản hướng dẫn Luật Đa dạng sinh học còn chưa đầy đủ. Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo tồn đa dạng sinh học của các Bộ, ngành còn chưa rõ nét và thiếu sự phối hợp chặt chẽ. Nguồn lực cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học còn mỏng và phân tán. Quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về đa dạng sinh học chưa được cụ thể hóa. Cơ chế khuyến khích cộng đồng tham gia vào bảo tồn đa dạng sinh học chưa đủ mạnh.

Trong thời gian tới, công tác bảo tồn đa dạng sinh học cần tập trung vào một số định hướng sau: (1) Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho bảo tồn đa dạng sinh học; (2) Nhanh chóng kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo tồn đa dạng sinh học; (3) Đẩy nhanh công tác quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học và xây dựng Chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học đến năm 2020; (4) Tăng cường đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo tồn đa dạng sinh học; (5) Xây dựng và thống nhất quản lý cơ sở dữ liệu về đa dạng sinh học; (6) Tăng cường thực thi pháp luật và giám sát việc thực hiện pháp luật về đa dạng sinh học; (7) Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế về bảo tồn đa dạng sinh học.

4. CÁC VẤN ĐỀ KHÁC

- Hội nghị nhận thấy việc tổ chức Hội nghị Môi trường toàn quốc đem lại nhiều ý nghĩa và hiệu quả thiết thực, thực sự là ngày hội lớn cho tất cả những người quan tâm và có trách nhiệm đối với công tác bảo vệ môi trường. Hội nghị kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường cần tiếp tục duy trì việc tổ chức các Hội nghị Môi trường toàn quốc, song lưu ý cần tạo điều kiện để có sự tham gia nhiều hơn nữa các nhà khoa học, quản lý, doanh nghiệp và các tổ chức cộng đồng.

- Bên cạnh việc tổ chức hội nghị môi trường toàn quốc 5 năm một lần, hằng năm Bộ Tài nguyên và Môi trường nên tổ chức các hội nghị chuyên đề để cập nhật các thông tin về quản lý nhà nước về môi trường, đa dạng sinh học và công nghệ xử lý chất thải của các nước trong khu vực và thế giới.

- Bộ Tài nguyên và Môi trường cần nhanh chóng xây dựng, hướng dẫn địa phương xây dựng kế hoạch BVMT đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020.

(Nguồn: Tổng cục Môi trường)
 

Thêm bình luận


Mã an toàn
Đổi mã khác

Bảng quảng cáo