Tập tính đô thị

Thứ năm, 09 Tháng 1 2014 11:00 dothiblog.wordpress.com
In

Những con sông từ những lạch nguồn khe núi chảy ra biển khai phá thiên nhiên hình thành nên sự sống và mở mang văn minh loài người. Sông cung cấp cho con người những nguyên liệu sơ khai để phát triển, nước để uống, đất đai để cư trú và trồng trọt, cá tôm làm dinh dưỡng và dòng chảy để di chuyển. Những đô thị lớn đầu tiên định hình bên những dòng sông như khởi đầu của xã hội. Cùng với dịch chuyển nhấp nhô bất tận của con nước, những thành phố biến đổi dần theo dòng chảy một chiều của thời gian.  


Điện Louvre nhìn từ sông Seine, Paris 

Sông có ảnh hưởng tới sự hình thành và hiện diện trong đời sống hàng ngày của đô thị như thế đó. Ở mỗi thành phố dòng sông chảy qua, biết bao thế hệ nghệ sỹ đã để lại những áng văn hay, những bức tranh đẹp và những vần thơ rung động nhắc đến con sông con nước. Những tác phẩm như vậy được gọi là nghệ thuật liên quan đến địa-tâm lý (psychogeology), một thuật ngữ riêng trong nghệ thuật và cả khoa học dùng để mô tả những tác phẩm, những nghiên cứu về ảnh hưởng của cảnh quan đến nhận thức và hành vi của con người tại địa phương. 

Tạm rời những con sông để lan sang câu chuyện về những nghiên cứu đô thị liên quan đến địa-tâm lý, không gian cảnh quan đô thị tác động đến nhận thức, hành vi của con người như thế nào và ngược lại từ cảm nhận, hành vi của con người sẽ có những kết luận gì về đô thị đó?

Đô thị được coi là một không gian tạo ra bởi ba nhân tố phụ thuộc lẫn nhau là con người, các tiến trình xã hội và vị trí không gian ngay tại đó. Trong đó nhân tố con người bao gồm các đặc điểm cộng đồng tại nơi đó, tất cả các vấn đề về hành vi và quan hệ xã hội; Còn các tiến trình xã hội gồm những hoạt động liên quan đến công nghiệp hóa, phát triển kinh tế hay các tiến trình tương tự diễn ra trên không gian địa điểm đang nhắc tới. Và nhân tố cuối cùng về vị trí không gian chính là những vấn đề về cảnh quan không gian, hay những đặc điểm của không gian đó giúp người ta có thể phân biệt được với không gian khác.

Trong ba nhân tố trên thì thông thường khi khảo sát địa lý xã hội, nhân tố con người và tiến trình xã hội luôn giữ vai trò quyết định khi phân tích một không gian đô thị trên một địa điểm xác định. Và địa điểm đó chỉ có vai trò trung tính như các hệ số đầu vào của bài toán khảo sát. Nhưng với cách nhìn xuất phát từ Địa tâm lý thì không như vậy.

Điều gì xảy ra nếu chúng ta coi tính địa điểm hay địa phương của đô thị đó chính là động lực chính chứ không phải một nhân tố thứ yếu khi phân tích. Hay nói cách khác, giả thiết chính của ý tưởng này là không gian địa điểm có những đặc thù riêng biệt mà nó tác động lên và chi phối lên hành vi con người và tiến trình xã hội diễn ra bên trong nó. Cách phân tích này lấy không gian địa điểm làm trọng, đẩy nhân tố con người và tiến trình xã hội vào vị trí thứ yếu, phụ thuộc; Không gian địa điểm đó có những đặc trưng văn hóa lịch sử như một sức ỳ, tồn tại tương đối độc lập so với tác động dân cư và tiến trình xã hội đang diễn biến, sức ỳ đó đóng vai trò quyết định chính cho diễn biến tiếp theo của không gian địa điểm đó. Nhân tố con người và tiến trình xã hội đương đại tuy ở vị trí thứ yếu, nhưng lại có tác dụng vào quá trình bồi đắp, xây dựng đặc trưng văn hóa địa điểm vào những giai đoạn tiếp theo, hay nói cách khác, sức ỳ trên không phải bất biến mà nó biến đổi theo thời gian như một quá trình đào tạo bởi các nhân tố đương đại. 


Sông Danube ở Budapest  

Để nghiên cứu theo cách tiếp cận này thì những nhà nghiên cứu như Martyn Lee áp dụng lý thuyết về Habitus (tập tính) của Pierre Bourdieu trong việc hình thành nên khái niệm tập tính đô thị (city habitus).

Theo Pierre Bourdieu thì tập tính (habitus) là hệ thống các tâm thế (disposition) bền vững được nội tại hóa nhờ vào các điều kiện khách quan của sự sinh tồn. Đó là toàn thể các tâm thế được học và thẩm thấu (hay nội tái hóa) vào cá nhân. Cá nhân có xu hướng tái tạo các tâm thế đó bằng cách kích hoạt các khung hành vi và thích ứng chúng với điều kiện hay hoàn cảnh mà họ sống. 

Áp dụng vào không gian đô thị, chúng ta coi đô thị như một cá nhân hoặc như một nhóm xã hội có tập tính riêng của mình. Những tập tính này có được nhờ sự hình thành các tâm thế theo thời gian do các điều kiện khách quan của sự tồn tại tác động, hay còn gọi là những hiện thực khách quan về xã hội và vật chất. Đến lượt mình những tập tính này quyết định những biến chuyển tiếp theo của đô thị hay “hành vi”, “ứng xử” của đô thị. Những hành vi này, chúng cũng biến đổi theo thời gian do sự “dạy dỗ” của con người và các tiến trình xã hội đương đại. 

Như vậy tập tính đô thị hình thành từ sự hòa hợp của lịch sử văn hóa được tích tụ theo thời gian với các điều kiện khách quan của tồn tại.

Các điều kiện khách quan này, hay các hiện thực khách quan có thể là các yếu tố bên trong hay bên ngoài chẳng hạn như các yếu tố địa lý cảnh quan, khí hậu, đặc điểm nhân khẩu, các đặc điểm thương mại, công nghiệp của thành phố hiện tại, đặc điểm về chính sách và quản lý đô thị hiện hành (yếu tố bên trong); Còn các tác động từ quy mô rộng lớn hơn như vùng, quốc gia hay quốc tế là những yếu tố bên ngoài.

Và cũng như trước kia Pierre Bourdieu sử dụng tập tính để thoát khỏi việc chọn lựa giữa lý thuyết cấu trúc không có chủ thể và triết lý về chủ thể, việc áp dụng khái niệm tập tính đô thị khiến các nghiên cứu tránh được việc lựa chọn giữa cách nhìn coi đô thị như chủ thể quyết định tối cao về vận mệnh của mình hay là sản phẩm của các ảnh hưởng từ bên ngoài. Quan điểm tập tính giúp chúng ta xem đô thị định hình như một sản phẩm trung gian của 2 thái cực trên.

Như vậy để bắt tay vào nghiên cứu 1 đô thị có thể từ các đặc trưng riêng biệt hay từ bản sắc của đô thị đó để làm cơ sở khởi đầu. Thành phố đó có những đặc điểm gì, bản sắc gì nổi bật khi so sánh với những đô thị khác. Những nhận xét đó nhiều khi có thể nêu ra ngay được từ sự tổng hợp thông tin truyền thông về nó, chẳng hạn như năng động hay bảo thủ, bình yên hay náo nhiệt, hoành tráng hay đơn giản, cũ hay mới, hoài cổ hay tươi trẻ .v.v. hoặc các đặc điểm xuất phát từ các điều kiện khách quan như sông nước, khí hậu, kinh tế, nhân khẩu .v.v.

Chẳng hạn như nhắc đến Hà Nội là nhắc đến sông Hồng, con sông cuộn đỏ phù sa màu mỡ nhưng cũng mang lại quá nhiều tai ương nên hệ thống đê chống lũ đã sớm hình thành. Đặc biệt với Hà Nội – thành phố trong sông, nỗi lo lắng vẫn hàng năm hiện hữu mỗi khi tuyến đô Yên Phụ oằn mình chống báo động cấp 3 vào mùa hạ. Trải qua lịch sử thành phố vốn quay lưng với dòng sông đã trở thành thói quen khó thể bỏ. Những dự định về một thành phố sông Hồng theo mô hình Hàn Quốc vì nhiều lý do vẫn không thể thực hiện được, thà rằng hướng về phía tây còn hơn tìm cách sử dụng 500ha ngay gần trung tâm nội thị. Đó có phải do tập tính của Hà nội? Cùng đặc tính sông nước nếu so sánh Hà Nội với Huế – thành phố sông Hương núi Ngự và Sài gòn, đô thị cảng biển và kênh rạch đan nhau thì có thể cảm nhận được ảnh hưởng của dòng sông mặt nước đến văn hóa đặc thù của từng đô thị. Và cùng với những đặc trưng khác, sẽ tạo cho mỗi đô thị một tập tính riêng, có thể dùng để giải thích những biến động của đô thị trong lịch sử và dự đoán sự phát triển trong thời gian tới. 

Trần Quang (dothiblog.wordpress.com) 


Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn: