
Một trong những những trụ cột của Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) là tính tự do luân chuyển của dòng tiền vào ra. Tuy nhiên, trong ngắn hạn Việt Nam nói chung cũng như Đà Nẵng và TPHCM nói riêng vẫn cần kiểm soát dòng tiền vào ra có chọn lọc ở một mức nhất định để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, khuyến khích xuất khẩu, chống lạm phát vừa có tính cạnh tranh so với các IFC lâu đời trong khu vực như Singapore hay Hồng Kông.
Đây là bài toán khó mà mô hình Mundell-Fleming (1962-1963) đã chỉ ra: một quốc gia không thể đồng thời đạt được ba mục tiêu: duy trì tỷ giá cố định, tự do luân chuyển vốn và chính sách tiền tệ độc lập.
Để tránh các cú sốc đối với nền kinh tế
Khi IFC hình thành, các dòng tiền từ các ngân hàng, quỹ đầu tư, nhà đầu tư cá nhân… sẽ đổ vào hoặc rút ra khỏi thị trường mà ít bị kiểm soát bởi nhà nước đúng với tinh thần của IFC: tự do giao dịch, chuyển tiền. Tuy nhiên với một nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào xuất khẩu như Việt Nam, việc dòng tiền chảy vào, rút ra một cách đột ngột thiếu kiểm soát sẽ gây ra những cú sốc rất lớn đối với nền kinh tế. Điều này có thể tác động tiêu cực như: giảm tăng trưởng, xuất khẩu suy giảm, lạm phát.
Trước hết nói về chính sách quản lý tỷ giá ngoại tệ. Việt Nam hiện nay đang quản lý điều hành chính sách ngoại hối theo tỷ giá trung tâm, các ngân hàng được phép mua bán ngoại tệ theo tỷ giá trung tâm kèm theo biên độ dao động lên xuống (+/-) từ 3% đến 5%.
Tỷ giá trung tâm do Ngân hàng nhà nước quyết định dựa trên tỷ giá các đồng ngoại tệ lớn và căn cứ trên chính sách điều hành của chính phủ về chính sách tiền tệ, tài khoá, chính sách xuất khẩu…
Trong khi đó các IFC trong khu vực, nhà nước thường neo cứng tỷ giá với một biên độ rất nhỏ so với đô la (Hongkong) hay điều hành theo một rổ tiền tệ mạnh, có biên độ hẹp (Singapore). Chính sách neo tỷ giá này giúp các nhà đầu tư giảm rủi ro và chi phí khi đầu tư vào các IFC, nâng cao tính cạnh tranh so với các thị trường tài chính khác.
Ngược lại chính sách ngoại hối linh hoạt dựa vào tỷ giá trung tâm sẽ giúp Việt Nam giữ ổn định hoặc giảm giá trị thực đồng Việt Nam nhằm khuyến khích xuất khẩu, một trong những trụ cột của nền kinh tế, giúp tăng trưởng GDP. Thông qua chính sách ngoại hối Việt Nam có thể kiểm soát cung tiền trong nền kinh tế nhằm kiểm soát lạm phát khi cần thiết.
Khi mở cửa thị trường tài chính các dòng vốn nóng, ngắn hạn như đầu tư chứng khoán, bất động sản có thể chảy vào và rút ra nhanh chóng, tạo ra cú sốc trên thị trường. Khi dòng tiền nóng này vào nhiều sẽ có thể gây ra bong bóng bất động sản, cổ phiếu mà nếu không kiểm soát chặt chẽ có thể gây ra những tác động khó lường đối với nền kinh tế. Đặc biệt khi dòng tiền nóng chảy vào nhiều sẽ làm tăng giá đồng Việt Nam, sẽ tác động đến mục tiêu xuất khẩu của nhà nước. Ngược lại, nếu dòng vốn ngắn hạn rút ra đột ngột sẽ làm giảm giá đồng Việt Nam có thể gây nên lạm phát đối với nền kinh tế.
Thị trường tài chính mở cửa thông qua các cơ chế đặc biệt của Trung tâm tài chính quốc tế cũng sẽ gián tiếp làm tăng nợ công của chính phủ và nợ vay của các doanh nghiệp. Với các nguồn vốn vay lãi suất thấp từ các ngân hàng, quỹ đầu tư, các tổ chức tài chính quốc tế nguy cơ tăng trần nợ công, nợ của các doanh nghiệp đối với nền kinh tế, về lâu dài sẽ tạo ra khủng hoảng nếu sử dụng vốn vay không hiệu quả, không có các quy định chặt chẽ về vay vốn nước ngoài.
Thận trọng và chấp nhận đánh đổi trong khuôn khổ cho phép
Việc quản lý ngoại hối, quản lý dòng tiền vào ra chặt chẽ, hợp lý để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô trong giai đoạn đầu hình thành Trung tâm tài chính quốc tế là bước đi thận trọng và cần thiết. Nhà nước cần phải chấp nhận sự đánh đổi (Trade-off) giữa tính cạnh tranh của IFC Việt Nam so với các IFC khác trong khu vực và sự ổn định của kinh tế vĩ mô nhằm bảo đảm mục tiêu tăng trưởng và các chính sách tiền tệ của mình. Để bảo đảm mục tiêu kép thu hút nhà đầu tư vào Trung tâm tài chính quốc tế Việt Nam đồng thời ổn định nền kinh tế, chống các cú sốc từ bên ngoài, thiết nghĩ nhà nước cần thực hiện đồng bộ một loạt các chính sách.

Thứ nhất, cần minh bạch chính sách tỷ giá trung tâm để các nhà đầu tư có niềm tin vào thị trường. Mặc dù không thể công bố số liệu tính toán cụ thể nhưng ít nhất Ngân hàng nhà nước có thể công bố phương pháp luận: các trọng số chủ yếu để tính tỷ giá trung tâm, các rổ tiền tệ mạnh tham khảo…
Thứ hai, đối với dòng tiền nóng đầu tư vào cổ phiếu, bất động sản, cần có có chính sách kiểm soát dòng tiền vào và rút vốn đột ngột thông qua việc tạo ra rào cản kỹ thuật, tài chính như quy định kéo dài thời gian chuyển lợi nhuận về nước, tăng thuế với mới mức hợp lý đối với lợi nhuận từ cổ phiếu, bất động sản. Bên cạnh đó nhà nước cần có các ưu đãi đặc biệt với các nguồn vốn dài hạn như đầu tư FDI, đầu tư vào các lĩnh vực khoa học công nghệ, fintech, AI, blockchain để tạo ra sự ổn định và phát triển kinh tế.
Thứ ba, để không bị mất kiểm soát dẫn đến tăng trần nợ quốc gia đặc biệt là nợ xấu do sử dụng vốn không hiệu quả, nhà nước cần quản lý chặt chẽ việc vay vốn nước ngoài trên thị trường tài chính thông qua IFC bằng cách công khai ngưỡng nợ trần quốc gia căn cứ vào tỷ lệ GDP, khả năng trả nợ và ngân sách quốc gia. Cần quy định rõ việc vay vốn của nhà nước và doanh nghiệp chỉ phục vụ cho mục tiêu phát triển như hạ tầng, giáo dục, năng lượng…, nghiêm cấm vay vốn để phục vụ cho mục đích tiêu dùng, kể cả tiêu dùng của chính phủ.
Cuối cùng, cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa Ngân hàng nhà nước và Bộ Tài chính trong việc thực hiện chính sách tiền tệ và tài khoá linh hoạt, kịp thời. Khi có dòng tiền vào lớn, Bộ tài chính phải tham mưu cho chính phủ cắt giảm các chi tiêu không cần thiết, Ngân hàng Nhà nước có thể điều chỉnh tỷ giá để giảm giá đồng Việt Nam, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu. Ngược lại khi dòng tiền rút ra khỏi thị trường quá lớn, Bộ Tài chính cần tham mưu cho chính phủ chọn lọc, duy trì các chi tiêu công thiết yếu, có sức lan toả, có khả năng trả nợ; Ngân hàng nhà nước cần điều chỉnh lãi suất phù hợp để cân bằng trong việc hút dòng tiền, chống lạm phát.
TS. Võ Duy Nghi – Viện quản trị và công nghệ FSB-Đại học FPT

