Chiến lược phát triển phải được đặc biệt phục vụ cho nhu cầu của mỗi quốc gia, là những đặc điểm và môi trường độc đáo của mỗi quốc gia đòi hỏi sự chú ý đặc biệt. Đối với đô thị hóa ở Việt Nam, rất nhiều sức ép được đặt trong các lĩnh vực sau: phát triển bền vững, hiệu quả, và giữ gìn bản sắc văn hóa sẽ tăng cường vị thế cạnh tranh của Việt Nam trong khu vực và giai đoạn kinh tế toàn cầu.
Sức tăng trưởng dân số đô thị ở Việt Nam
Dân số đô thị tăng dần của Việt Nam chắc chắn sẽ truyền tải một tác động tiêu cực đến tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam. Như năm 2011, dân số Việt Nam đã tăng trưởng tới 88,8 triệu người, trong đó dân số đô thị chiếm 25% tổng dân số. Con số ước tính sơ bộ cho thấy rằng vào năm 2050, số liệu dân số của Việt Nam được dự báo sẽ tăng thêm 40% lên 125 triệu người, với 50% dân số sống ở các thành phố hay nói cách khác sẽ có hơn 60 triệu dân sống ở thành thị. Điều đó có nghĩa là dân số đô thị tăng 40 triệu người trong khoảng thời gian 40 năm, hay nói cách khác là 1 triệu dân một năm. Những con số đáng kinh ngạc cho thấy sự cần thiết cần tập trung vào quy hoạch sử dụng đất trong các khu vực đô thị tại Việt Nam. Việt Nam sẽ tiếp tục trải nghiệm những khó khăn mang tính chu kỳ và tình trạng chậm phát triển kinh tế nếu như không chú trọng đến sự cần thiết phải “có những nhận thức mới” đối với các đô thị của mình.
Do hệ quả của quy hoạch kém, quá trình đô thị hóa truyền thống dẫn đến tình trạng thiếu hụt thực phẩm, không gian, nước và năng lượng ngày càng tăng. Việt Nam đã trở thành một nước nhập khẩu ròng năng lượng và tất cả các dấu hiệu cho thấy nhu cầu cần các nguồn lực sẽ tiếp tục tăng. Việt Nam có sự phong phú đất đai và tài nguyên thiên nhiên, nên phấn đấu để trở thành một nước xuất khẩu ròng năng lượng và nguồn lực để hỗ trợ tăng trưởng GDP. Trong khi đó, tăng trưởng sẽ phát triển thành một mối đe dọa có ảnh hưởng đến quốc gia cũng như phần còn lại của thế giới. Mối tương quan giữa dân số đô thị tăng vọt của một quốc gia và những ảnh hưởng xấu, việc sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên và môi trường của một quốc gia đến như là một vận mệnh không thể tránh được trong tất cả các quốc gia đang công nghiệp hóa. Việt Nam sẽ sớm gặp phải tình trạng khó khăn này nếu tình hình không được đề cập trước để giải quyết.
Học hỏi từ những “Con Hổ” – những cơ hội bỏ lỡ
Trong thập kỷ qua, một số nước láng giềng của Việt Nam như Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Philippines, thường được gọi là những “Con Hổ“- được coi là mô hình để học hỏi khi xây dựng cách tiếp cận phát triển đô thị của Việt Nam. Trước giai đoạn công nghiệp hóa, những “Con Hổ” này chủ yếu dựa vào nền kinh tế nông nghiệp. Với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và lực lượng lao động giá thấp, những “Con Hổ” này vươn lên, không còn trong tình trạng duy trì nền kinh tế nông nghiệp và chuyển đổi thành nền kinh tế sản xuất để cung cấp hàng hóa giá rẻ cho các quốc gia phát triển. Kết quả là các nhà máy mọc lên, nhiều đường giao thông và và vận tải hàng hóa được xây dựng, phát triển nhiều nhà ở phục vụ dân cư tăng lên, GDP tăng mạnh. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa của những “Con Hổ” này đã tạo ra nhu cầu ngày càng tăng về nguồn cho các quốc gia, ví dụ như trong đầu những năm 90 Malaysia đã chuyển đổi từ vị thế quốc gia sản xuất ròng gạo thành quốc gia nhập khẩu ròng gạo. Mức lương hấp dẫn đã thu hút dân cư rời làng quê đến các khu vực đô thị, làm tăng quá trình đô thị hóa nhanh chóng, dẫn đến mất cân bằng, kéo theo những hệ quả như lũ lụt nghiêm trọng, mất điện, giao thông tắc nghẽn, cơ sở hạ tầng và thể chế xuống cấp, nhiều vấn đề đô thị không hiệu quả. Khi nhận ra sau này, sự phát triển vượt bậc của những “Con Hổ” này chỉ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn và suy thoái kinh tế năm 1997 đã cho thấy rằng những quốc gia này đã sống trong thời gian khủng hoảng. Các nước như Malaysia, Thái Lan, Philippines, và Indonesia đã mất hơn một thập kỷ để tìm ra con đường hồi phục. Mặc dù tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong ngắn hạn, những “Con Hổ” đến nay vẫn phải đối mặt với các cơ cấu kinh tế mất cân bằng đi kèm với các vấn đề chính gây do tình trạng quá tải, giao thông tắc nghẽn và xuống cấp môi trường đô thị do hệ quả của sự mở rộng nhanh chóng. Để giải quyết sự thiếu hiệu quả đòi hỏi sự quan tâm nghiêm túc, các giải pháp phức hợp và kinh phí lớn của chính phủ, do đó chính phủ bị hạn chế cơ hội hơn để tài trợ hiệu quả các lĩnh vực khác đang có nhu cầu.
Đồ án quy hoạch phân khu N9 tại Hà Nội
NHỮNG ĐÔ THỊ THEO LỐI TƯ DUY MỚI – Cơ hội của Việt Nam
Thế kỷ 21 sẽ được đánh dấu bằng ba sự kiện quan trọng tương quan với nhau sẽ mở ra cách mà chúng ta định hình thế hệ tương lai và cách chúng ta sống và sử dụng nguồn lực hạn chế trên trái đất như thế nào:
- Đô thị hoá và Tăng trưởng kinh tế ở châu Á sẽ tạo ra một ấn tượng toàn cầu và định hình thế kỷ 21.
- Các đại đô thị với dân số vượt quá 10 triệu sẽ cạnh tranh trên quy mô toàn cầu để thu hút nhân tài và các doanh nghiệp hàng đầu cũng như các nguồn lực.
- Như với các thách thức môi trường đã được biết đến trước đây, cách tiếp cận sáng tạo và hiệu quả là rất cần thiết để khắc phục sự phức tạp và thiếu sót sinh ra do quá trình đô thị hóa.
Giải pháp hiện tại của vấn đề đô thị hóa sẽ dẫn đến giảm hiệu quả nguồn lực, theo sau đó là sự gia tăng nhu cầu nguồn lực toàn cầu đến một mức độ mà nó có thể ảnh hưởng đáng kể và có thể gây mất ổn định phát triển kinh tế của Việt Nam và các quốc gia khác.
Trước đây, các đô thị đã đưa ra nhu cầu to lớn về tài nguyên quốc gia, nếu như nguồn tài nguyên này là không giới hạn và các hệ thống tự nhiên là hoàn toàn dễ phục hồi. Lịch sử gần đây đã chứng minh rằng các nguồn lực này chẳng bao lâu nữa sẽ cạn kiệt. Thay vào đó, cần phải có sự chuyển đổi đô thị từ sử dụng nguồn lực đến giảm thiểu các tác dụng phụ từ sự vận hành các đô thị. Con người có thể không còn chỉ tiêu thụ tài nguyên, chúng ta cần phải hành động như "nhà sản xuất" bằng cách chấp nhận trách nhiệm để giảm thiểu việc sử dụng, tái chế, tái sử dụng và tái tạo nguồn tài nguyên của thế giới.
Trong trường hợp này, chúng ta cần một cách tiếp cận mới xa hơn việc phát triển đô thị bền vững, cung cấp các giải pháp và dịch vụ đô thị để hoạt động như một sự chuyển đổi trong vòng đời của chúng ta.
- Ảnh bên: Các quy hoạch phân khu tại Hà Nội
Tiêu chí mới cho Phát triển đô thị tại Việt Nam
Việt Nam đang tiếp cận giai đoạn tiếp theo của chu kỳ tăng trưởng kinh tế có cơ hội thiết lập tiêu chuẩn mới cho việc đô thị hóa ở châu Á và áp dụng một cách tiếp cận mới tới các đô thị sinh thái bền vững, bằng cách đối đầu với những thách thức đô thị hóa hiện tại và tương lai. Theo truyền thống, việc phát triển đô thị đã nhấn mạnh các giải pháp nhà ở và giao thông trực tiếp trong khi bỏ qua việc phân bổ cân bằng sự hiệu quả và bản sắc văn hóa. Ba tiêu chí phát triển đã được thiết lập cho việc quy hoạch, triển khai và vận hành các khu đô thị mới tại Việt Nam:
(a) Các đại đô thị liên hợp cao tầng và mật độ cao: Mật độ đô thị cao và cao tầng tối đa hóa lợi ích và cách sử dụng các khu vực bề mặt đô thị, thực hành nông nghiệp và thân thiện con người trong khi vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa qua đó tối đa hóa hiệu quả sử dụng đất và hạn chế xâm lấn vào đất sản xuất nông nghiệp.
(b) Phát triển đô thị Hiệu suất cao: hiệu quả cao, tính cạnh tranh cao với chất lượng sống, giáo dục và triển vọng cao; khả năng thu hút tài năng, các doanh nghiệp và các ngành công nghiệp hàng đầu toàn cầu.
(c) Tổ chức: đưa việc sử dụng các nguồn tài nguyên mới, tài nguyên thay thế và năng lượng tái tạo trong khi tạo cảm hứng phát triển đổi mới và công nghệ của thế kỷ 21 để hồi sinh sự phục hưng của Đô thị; Vận hành một hệ thống Quản lý đô thị thông minh theo cụm để quản lý và làm mô hình hoạt động đô thị và kịch bản tài nguyên hiệu quả. Các đô thị không chỉ là một sự sắp xếp ngẫu nhiên của các tòa nhà riêng lẻ mà còn là hệ thống hỗ trợ thông minh và toàn diện / hỗ trợ cho dân cư đô thị với các tiêu chuẩn và thông số kỹ thuật đem lại lợi ích cho cộng đồng.
Câu kết: Việt Nam cần các đại đô thị nông nghiệp liên hợp tự cung ứng vận hành như nhà sản xuất, chứ không phải là người tiêu dùng, nhấn mạnh tốc độ và hiệu quả trong khi giữ gìn bản sắc văn hóa của Việt Nam.
Đồ án quy hoạch phân khu N5-7-8 tại Hà Nội
TƯ DUY ĐÔ THỊ MỚI! – Quy hoạch phân khu và Đổi mới Quy hoạch đô thị tại Việt Nam
Phương pháp luận quy hoạch đô thị thông thường của Việt Nam cần xây dựng lại cơ bản, thiết lập tiêu chuẩn mới để cung cấp đại đô thị liên hợp nông nghiệp độc đáo, hiệu quả và năng suất cao và tối ưu hóa chất lượng cuộc sống cho cư dân. Vì thành phố phát triển trong sự phức tạp nên cần có một cách tiếp cận quy hoạch đa chiều và đa cấp. Chúng tôi đã xác định được bốn cấp độ quy hoạch chính:
- Quy hoạch O-clit tiêu chuẩn được đặc trưng bởi sự phân biệt sử dụng đất vào các khu vực địa lý và các tiêu chuẩn kích thước quy định hạn chế về hoạt động phát triển trong mỗi loại của khu vực. Ưu điểm bao gồm hiệu quả tương ứng, dễ dàng thực hiện, tiền lệ pháp lý được thiết lập lâu dài và quen thuộc. Tuy nhiên, phân khu O-clit đã nhận được những lời chỉ trích cho việc thiếu tính linh hoạt.
- Quy hoạch ưu đãi được thiết kế để cung cấp một hệ thống khen thưởng để khuyến khích phát triển nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển đô thị được thiết lập. Thông thường, phương pháp thiết lập một mức độ cơ bản những hạn chế và quy mô thưởng để lôi kéo các chủ đầu tư kết hợp các chỉ tiêu phát triển mong muốn. Quy hoạch ưu đãi cho phép mức độ linh hoạt cao, nhưng có thể phức tạp để quản lý.
- Quy chuẩn mẫu cung cấp sự linh hoạt đáng kể trong sử dụng xây dựng hơn so với quy chuẩn O-clit. Quy hoạch phân khu mẫu không chỉ điều chỉnh các loại hình sử dụng đất mà còn hình thành hình thức sử dụng đất. Ví dụ, quy hoạch phân khu dựa trên hình thức trong một khu vực dày đặc có thể nhấn mạnh vào khoảng lùi thấp, mật độ cao và khả năng tiếp cận cho người đi bộ.
- Thực hiện quy hoạch phân khu còn được gọi là "quy hoạch dựa trên các hiệu ứng", sử dụng các tiêu chuẩn dựa trên hiệu suất hoặc định hướng mục tiêu để thiết lập các thông số đánh giá cho các dự án phát triển đề xuất. Thực hiện quy hoạch phân khu được thiết kế để cung cấp sự linh hoạt, hợp lý, minh bạch và trách nhiệm, tránh sự chuyên quyền của phương pháp tiếp cận O-clit, nguyên tắc thị trường tốt hơn và quyền sở hữu tư nhân với sự bảo vệ môi trường. Những khó khăn bao gồm một yêu cầu một hoạt động tùy ý mức độ cao của trên phần của cơ quan giám sát.
Đồ án quy hoạch phân khu S5 tại Hà Nội
KẾT LUẬN
Chuyển đổi đô thị của Việt Nam kêu gọi mối quan hệ đối tác mạnh mẽ giữa chính phủ, các thành phần tư nhân và các cộng đồng – một sự hợp tác sẽ hướng sự chuyển đổi phát triển đô thị của Việt Nam dựa trên việc trung tâm tài nguyên, hiệu quả cao, mật độ tăng, sự phân tầng sử dụng đất, hỗ trợ xã hội và ổn định, giáo dục tăng cường và triển vọng việc làm và cuối cùng, một chất lượng sống cao trong một bối cảnh văn hóa phong phú.
Giải pháp cho những thách thức đang nổi lên của Việt Nam trong thế kỷ 21 sẽ là việc thực hiện chiến lược quy hoạch sử dụng đất được hình thành một cách độc đáo thúc đẩy chất lượng cuộc sống, tăng trưởng hiệu quả và các đại đô thị nông nghiệp liên hợp tự cung ứng với cơ sở hạ tầng nông nghiệp, đảm bảo các nguồn tài nguyên thiên nhiên và chủ yếu trước mắt là việc bảo tồn bản sắc văn hóa của Việt Nam. Việt Nam có tiềm năng để trưởng thành thành một quốc gia lãnh đạo toàn cầu về đổi mới đô thị bằng cách phát triển các dịch vụ chuyên ngành, các cơ sở tiện ích và một môi trường vận hành. Cuối cùng Việt Nam sẽ thu hút các nhân tài và doanh nghiệp hàng đầu toàn cầu, tạo vị thế cạnh tranh bền vững cho Việt Nam trên thế giới./.
Tóm tắt:Trình bày vấn đề: Việt Nam hiện đang sắp bước sang giai đoạn tăng trưởng phát triển tiếp theo. Dự báo dân số thành thị của Việt Nam sẽ tăng trưởng khoảng một triệu người mỗi năm trong thập kỷ tới. Sự gia tăng đáng kể dân số thành thị ở Việt Nam sẽ tạo ra những thách thức lớn về cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, nhà ở và thể chế. Để đối mặt với các đòi hỏi do những thách thức mới tạo ra, thì cần có cách tiếp cận mới thay thế các chiến lược phát triển thông thường hiện đang áp dụng để mở rộng đô thị Việt Nam. Cách tiếp cận hiện tại đối với cơ sở hạ tầng đô thị tại Việt Nam tập trung vào việc xây dựng nhà ở cơ bản và phù hợp với văn hóa phát triển xe cơ giới trong nước sẽ không đáp ứng được những thách thức sắp tới của Việt Nam trong thế kỷ 21, cũng như không thúc đẩy phát triển xa hơn nữa nếu các vấn đề không được giải quyết. Các quốc gia lân cận Việt Nam đã trải qua các giai đoạn phát triển tương tự như sự chuyển đổi mà Việt Nam sẽ sớm trải qua, do đó Việt Nam có cơ hội đúc rút các bài học và phát triển. Điều này hỗ trợ Việt Nam nắm giữ cơ hội để trở thành miền đất của các ngành công nghiệp mới, thúc đẩy các giải pháp đô thị mang tính sáng tạo, nhấn mạnh đến tính bền vững, hiệu quả sử dụng, bảo tồn bản sắc văn hóa, tiếp tục tăng trưởng kinh tế dài hạn, hệ quả là thiết lập những tiền lệ độc đáo mới cho phát triển đô thị ở châu Á. Cách tiếp cận: Việc triển khai các chiến lược quy hoạch đô thị tăng cường có thể khuyến khích và đem lại những phát triển bền vững thích hợp và hiệu quả, đóng góp vào lợi ích công cộng và chất lượng cuộc sống của đất nước. Có thể đưa nền nông nghiệp độc đáo của Việt Nam vào kết hợp với quá trình đô thị hóa ngày càng tăng của Việt Nam để tạo ra các Đại Đô thị Liên hợp. Đây là một giải pháp khác xa những tư duy đô thị thông thường và sự phổ biến của phương tiện giao thông cơ giới cá nhân, có các nguồn lực tái sinh và hiệu quả bố trí tập trung xung quanh, với phương thức giao thông vận tải thay thế có hiệu quả và năng suất, trong khi hỗ trợ cơ sở hạ tầng xã hội, kỹ thuật, nông nghiệp, thúc đẩy bản sắc và giá trị văn hóa truyền thống. Kết luận: Các giải pháp cho những thách thức Việt Nam phải đối mặt trong thế kỷ 21 sẽ là việc thực hiện phương pháp tiếp cận đa phương diện độc đáo, hướng đến chiến lược đô thị và phân khu sử dụng đất có tác dụng nâng cao chất lượng sống, thúc đẩy hiệu quả và tăng trưởng bền vững của các Đại Đô thị Liên hợp, hợp nhất với cơ sở hạ tầng nông nghiệp, ổn định nguồn lực, và bản sắc văn hoá. Việt Nam có tiềm năng phát triển thành quốc gia đi đầu trong đổi mới đô thị thông qua phát triển các sản phẩm công nghiệp chuyên ngành, dịch vụ, cơ sở vật chất, môi trường hoạt động. Việt Nam sẽ thu hút những nhân tài và doanh nghiệp hàng đầu toàn cầu, tăng cườngvị thế cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế. |
Các tác giả: Robbert VAN NOUHUYS, Ying QIU, Priya GOPALAN, Sandy LAM, Frank CARRERA
Tư liệu ảnh minh họa: Ashui.com
THAM KHẢO:
- United Nations, Department of Economic and Social Affairs/Population Division, 2010. World Urbanization Prospects, the 2009 Revision.
- United Nations, Population Fund, 2011. State of world population 2011.
- Kunzig, R. January 2011. Population 7 Billion. Official Journal of the National Geographic Society, Volume 219, No.1.
- European Environment Agency, 2010. The European Environment State and Outlook 2010 - Assessment of Global Megatrends. Luxembourg: Publications Office of the European Union.
- National Geographic Magazine (NGM), 2011
http://ngm.nationalgeographic.com/2011/01/seven-billion/kunzig-text
- ABS-CBN News, 2011
http://www.abs-cbnnews.com/-depth/03/20/11/can-megacities-cope-disaster
- Vietnam Investment Review, 2012
http://www.vir.com.vn/news/top-news/hanoi-aims-to-complete-zoning-plans-by-2015.html
- Adger, W. Neil. Social Vulnerability to Climate Change and Extremes in Coastal Vietnam. World Development Vol. 27, No. 2, pp. 249-269, Elsevier Science Ltd. 1999.
(Bài viết được đăng trong Tạp chí Quy hoạch Đô thị số 10)
- Quy hoạch đô thị ngầm
- Thành phố Hồ Chí Minh, hướng tới thế kỷ 21
- Quy hoạch tổng thể Khu đô thị Zuidas ở Amsterdam
- Đô thị Việt Nam đang phát triển theo phương đứng
- Không gian trong đô thị hóa
- Ảnh hưởng của quy hoạch không gian đến hiện tượng ngập nước ở TPHCM
- Mảng xanh đô thị và sức khỏe cộng đồng
- Những đổi thay từ đô thị hoá ở TP.HCM
- Hà Nội - vì một quá trình đô thị hóa hỗn hợp và giàu bản sắc
- Không gian vỉa hè - Nét văn minh của đô thị