
Những tín hiệu chuyển biến tích cực
Năm 2025, kinh tế Việt Nam được dự báo tăng trưởng từ 7-7,5% nhờ sự ổn định của các yếu tố vĩ mô, bao gồm lạm phát được kiểm soát dưới 4% và chính sách tiền tệ linh hoạt.
Theo các nhà phân tích thị trường, năm 2025, doanh nghiệp VLXD lạc quan về triển vọng thị trường tiêu thụ nhờ lực đẩy từ các chính sách điều hành vĩ mô của Chính phủ như: đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nhà ở xã hội, cùng kỳ vọng hồi phục của thị trường bất động sản khi các nút thắt pháp lý dần được tháo gỡ.
Năm 2025 cũng là năm cuối của kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025, ghi nhận mức đầu tư công kỷ lục lên tới 791 nghìn tỷ đồng (tương đương 6,4% GDP) đã được Quốc hội phê duyệt. Khoản ngân sách này sẽ giúp đẩy mạnh thi công các công trình trọng điểm. Đáng chú ý, ngân sách đầu tư công năm 2025 tăng gần 21,4% so với 2024 (đạt khoảng 86 tỷ USD).
Kết quả của Cục Thống kê vừa công bố cũng cho thấy đà tăng trưởng của ngành Xây dựng trong nửa đầu năm 2025 tăng 9,62%, đây là mức tăng cao nhất so với cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2025, đóng góp 0,63%, thể hiện kết quả tích cực của ngành Xây dựng. Nguyên nhân là do đầu tư công mạnh vào hạ tầng giao thông, đô thị: các dự án giao thông trọng điểm được đẩy nhanh tiến độ, các dự án nhà ở xã hội được đẩy mạnh, các chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát được triển khai mạnh mẽ trên cả nước; cải cách pháp lý, hành chính mở đường cho nhiều dự án mới.
Bên cạnh đó, dòng vốn tư nhân và FDI chảy vào xây dựng dân dụng, công nghiệp; thị trường bất động sản, nhà ở trong 6 tháng đầu năm bắt đầu ấm dần. Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định giúp ngành Xây dựng phát triển bền vững…Đây chính là các yếu tố đã tạo nên sự bứt phá ấn tượng cho ngành Xây dựng Việt Nam trong nửa đầu năm 2025, đồng thời cũng là động lực thúc đẩy quan trọng cho nhu cầu sản xuất và tiêu thụ VLXD.
Theo báo cáo của Vụ KHCNMT&VLXD, trên thực tế, trong 6 tháng vừa qua, tình hình sản xuất và tiêu thụ VLXD đã có những chuyển biến tích cực, các số liệu đều cho thấy sự tăng trưởng hơn so với cùng kỳ năm trước.
Cụ thể,vớixi măng, sản lượng sản xuất lũy kế 6 tháng đầu năm 2025 ước đạt 49,8 triệu tấn, tăng 18% so với thực hiện cùng kỳ năm 2024 (cùng kỳ năm 2024 đạt 5 42,2 triệu tấn).
Tổng sản lượng xi măng và clanhke tiêu thụ ước đạt 54 triệu tấn, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó, xi măng tiêu thụ nội địa khoảng 37,5 triệu tấn, tăng 18% so với cùng kỳ 2024; xuất khẩu sản phẩm xi măng và clanhke ước đạt khoảng 17 triệu tấn, tăng 6% so với cùng kỳ 2024. (xuất khẩu clanhke tăng 19% cùng kỳ 2024 và xi măng giảm 2% so với cùng kỳ 2024). Giá trị xuất khẩu ước đạt 635 triệu USD, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm 2024.
Gạch ốp lát, tính đến hết tháng 6 năm 2025, sản lượng sản xuất gạch ốp lát đạt khoảng 225 triệu m2 (trong đó gạch ceramic khoảng 152 triệu m2, gạch granite khoảng 49 triệu m2, ngói tráng men 13 triệu m2 và cotto là khoảng 11 triệu m2). Sản lượng sản xuất đạt khoảng 55% tổng công suất thiết kế. Sản lượng tiêu thụ gạch ốp lát đạt khoảng 220 triệu m2 (trong đó gạch ceramic khoảng 145 triệu m2, gạch granite khoảng 45 triệu m2, ngói tráng men 15 triệu m2 và cotto là khoảng 15 triệu m2). Xuất khẩu ước đạt khoảng 115 triệu USD (khoảng 23 triệu m2); nhập khẩu 37 triệu USD.
Sứ vệ sinh có sản lượng sản suất khoảng 6,5 triệu sản phẩm, đạt khoảng 50% tổng công suất thiết kế. Sản lượng tiêu thụ khoảng 7,1 triệu sản phẩm, tăng khoảng 12% so với cùng kỳ. Xuất khẩu ước tính khoảng 85 triệu USD, nhập khẩu 26 triệu USD.
Kính xây dựng đạt sản lượng sản xuất khoảng 72 triệu m2 QTC (khoảng 35% công suất thiết kế). Sản lượng tiêu thụ ước đạt 84 triệu m2 QTC.
Vật liệu xây không nung (VLXKN), trong thời gian qua, do tình trạng khan hiếm nguồn cung, giá cát (nguyên liệu chính sản xuất VLXKN) liên tục tăng cao, làm tăng chi phí, tăng giá thành sản xuất VLXKN. Những tháng gần đây, giá gạch đất sét nung tăng mạnh nên tình hình tiêu thụ sản phẩm VLKXKN có chuyển biến khá so với cùng kỳ 2024, tuy nhiên việc tiêu thụ sản phẩm vẫn còn khó khăn. Ước tính, sản lượng sản xuất và tiêu thụ VLXKN đạt khoảng 2,5 tỷ viên QTC, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2024.
Tập trung các giải pháp thúc đẩy ngành VLXD phát triển
Đáng chú ý, ngoài những tín hiệu tích cực trên, trong 6 tháng qua, thị trường sản xuất và tiêu thụ VLXD được thúc đẩy bởi khối lượng xây dựng trên cả thị trường dân dụng và công nghiệp; đặc biệt với việc đẩy mạnh hoạt động đầu tư công vào các dự án hạ tầng lớn (cao tốc, cảng, sân bay…) do đó nhu cầu cát, đá, thép, xi măng tăng đột biến. Trong khi đó, nguồn cát và đá phục vụ xây dựng ở một số địa phương còn xảy ra hiện tượng khan hiếm cục bộ, do tình trạng thiếu nguồn cung cấp: mỏ hết hạn, bị gián đoạn khai thác, sạt lở…
Chính vì vậy, giá một số mặt hàng VLXD, đặc biệt các loại cát, sỏi, đá, gạch, vật liệu san nền, đắp nền đường,… tăng cao bất thường, gây ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí xây dựng, tiến độ thi công công trình; đã xuất hiện tình trạng chậm trễ, ách tắc trong cấp phép khai thác cát, sỏi, đá xây dựng, có đấu hiệu đầu cơ, găm hàng, đội giá và có dấu hiệu thao túng, lũng đoạn thị trường VLXD.
Để kịp thời chấn chỉnh, xử lý, khắc phục các hạn chế, bình ổn giá cả VLXD và đảm bảo tiến độ thi công các công trình trọng điểm quốc gia, cũng như đáp ứng nhu cầu xây dựng các công trình dân sinh, nhà ở của người dân, các dự án nhà ở, bất động sản, Vụ KHCNMT&VLXD đã chủ trì, phối hợp với Cục KT-QLĐTXD kịp thời tham mưu Bộ trưởng Bộ Xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Công điện số 85/CĐ-TTg ngày 10/6/2025 về việc tăng cường các giải pháp quản lý, bình ổn giá VLXD gửi các Bộ, ngành và địa phương.
Tiếp theo đó, Bộ trưởng Bộ xây dựng đã ban hành văn bản số 5050/BXD-KHCNMT&VLXD để hướng dẫn các địa phương triển khai thực hiện Công điện số 85/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Để tiếp tục công tác quản lý phát triển bền vững lĩnh vực VLXD, trong 6 tháng cuối năm 2025, Vụ KHCNMT&VLXD cho biết, sẽ tập trung tập trung thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm bao gồm: Triển khai thực hiện hiệu quả các nội dung trong Công điện số 85/CĐ-TTg ngày 10/6/2025 về việc tăng cường các giải pháp quản lý, bình ổn giá VLXD, Kế hoạch thực hiện Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm VLXD thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Chỉ thị số 28/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ xi măng, sắt thép và VLXD để nâng cao hiệu lực, hiệu qủa quản lý nhà nước về VLXD;…
Nhìn chung, thị trường VLXD 6 tháng qua đã tạo được đà tăng trưởng đầy tích cực, dù bên cạnh đó vẫn tồn tại một số thách thức như cung dư, chi phí đầu vào tăng và rủi ro thương mại, nhưng các động lực từ đầu tư công, phát triển đô thị và thị trường vật liệu xanh vẫn tạo nền tảng khả quan cho toàn ngành VLXD phát triển vững chắc trong thời gian tới.
Thúy Vy

