By using this site, you agree to the Privacy Policy and Terms of Use.
Accept
Ashui.comAshui.comAshui.com
  • Home
    • Bookmarks
    • English
      • News
      • Projects
      • Products
    • Ashui Awards
    • Giới thiệu
    • Quảng cáo / PR
    • Liên hệ
  • Tin tức / Sự kiện
    • Tin trong nước
    • Tin thế giới
    • Sự kiện
    Tin tức / Sự kiệnĐọc tiếp
    Hà Nội khẩn cấp xây 8 hồ rộng gần 150 ha, tăng sức chống ngập đô thị
    KTSG Online 05/12/2025
    Triển lãm “Khám phá của trẻ em về Hệ sinh thái Sông Hồng”
    Ashui.com 03/12/2025
    TP.HCM ban hành đề án nguồn nhân lực cho hệ thống đường sắt đô thị
    Tạp chí Xây dựng 03/12/2025
    Indonesia: Nạn phá rừng làm gia tăng lũ lụt gây thương vong
    TTXVN 02/12/2025
    TP Huế thúc đẩy các dự án trọng điểm, ưu tiên an sinh và tái định cư bền vững
    Ashui.com 01/12/2025
  • Chuyên mục
    • Kiến trúc
    • Nội – ngoại thất
    • Quy hoạch đô thị
    • Bất động sản
    • Năng lượng – Môi trường
    • Phong thủy
  • Công nghệ
    • Công nghệ mới
    • Giải pháp
    • Xu hướng
    • Ứng dụng
  • Vật liệu / Thiết bị
    • Vật liệu xây dựng
    • Trang thiết bị
    • Trang trí nội thất
    • Thị trường
  • Dự án
    • Giới thiệu dự án
    • Tư vấn thiết kế
    • Kinh tế / Pháp luật
  • Tương tác
    • Chuyên đề
    • Góc nhìn
    • Phản biện
    • Đối thoại
    • Q&A
    • Điểm đến
    • Nhìn ra thế giới
  • Cộng đồng
    • Kiến trúc sư
    • Kỹ sư
    • Thiết kế / Sáng tạo
    • Sinh viên
    • Tuyển dụng
    • Ashui Awards Tour
    • CLB Điện ảnh Kiến trúc
    • CLB Kiến trúc Xanh TPHCM
Font ResizerAa
Ashui.comAshui.com
Font ResizerAa
  • Home
  • Tin tức / Sự kiện
  • Chuyên mục
  • Công nghệ
  • Vật liệu / Thiết bị
  • Dự án
  • Tương tác
  • Cộng đồng
  • Home
    • Bookmarks
    • English
    • Ashui Awards
    • Giới thiệu
    • Quảng cáo / PR
    • Liên hệ
  • Tin tức / Sự kiện
    • Tin trong nước
    • Tin thế giới
    • Sự kiện
  • Chuyên mục
    • Kiến trúc
    • Nội – ngoại thất
    • Quy hoạch đô thị
    • Bất động sản
    • Năng lượng – Môi trường
    • Phong thủy
  • Công nghệ
    • Công nghệ mới
    • Giải pháp
    • Xu hướng
    • Ứng dụng
  • Vật liệu / Thiết bị
    • Vật liệu xây dựng
    • Trang thiết bị
    • Trang trí nội thất
    • Thị trường
  • Dự án
    • Giới thiệu dự án
    • Tư vấn thiết kế
    • Kinh tế / Pháp luật
  • Tương tác
    • Chuyên đề
    • Góc nhìn
    • Phản biện
    • Đối thoại
    • Q&A
    • Điểm đến
    • Nhìn ra thế giới
  • Cộng đồng
    • Kiến trúc sư
    • Kỹ sư
    • Thiết kế / Sáng tạo
    • Sinh viên
    • Tuyển dụng
    • Ashui Awards Tour
    • CLB Điện ảnh Kiến trúc
    • CLB Kiến trúc Xanh TPHCM
Các kênh mạng xã hội
  • Advertise
© 2000-2025 Ashui.com. All Rights Reserved.
Quy hoạch đô thị

Tác động của tỷ lệ hẻm núi đô thị và hướng đường phố tới điều kiện vi khí hậu và tiện nghi nhiệt ngoài trời tại TP Đà Nẵng

Nghiên cứu này đánh giá tác động của hướng và tỷ lệ hẻm núi đô thị (tỷ lệ giữa chiều cao và chiều rộng) lên các tham số vi khí hậu và chỉ số nhiệt ở tầng người đi bộ trong các hẻm phố trong điều kiện khí hậu TP Đà Nẵng, Việt Nam.

Tạp chí Xây dựng 19/11/2025
36 phút đọc
SHARE
Nội dung
1. Đặt vấn đề2. Phương pháp nghiên cứu2.1. Dữ liệu vi khí hậu2.2. Xây dựng kịch bản nghiên cứu2.3. Mô phỏng với ENVI-met v5.6.13. Kết quả 3.1. Nhiệt độ không khí3.2. Nhiệt độ bức xạ trung bình3.3. Nhiệt độ sinh lý tương đương (PET)4. Kết luận
Đà Nẵng – thành phố cảng quan trọng của miền Trung. (Ảnh: Internet)

1. Đặt vấn đề

Đà Nẵng, một thành phố cảng quan trọng của miền Trung, là đô thị lớn đang phát triển và giữ vai trò trọng yếu trong vùng kinh tế khu vực. Theo Quyết định số 359/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, thành phố này hướng tới phát triển thành một trung tâm kinh tế – du lịch, với định hướng phát triển du lịch toàn thành phố [3].

Mặc dù vậy, hiện nay Đà Nẵng đang đối diện với nhiều thách thức về môi trường ảnh hưởng đến chất lượng sống, trong đó có Đảo nhiệt đô thị (UHI) và Biến đổi khí hậu (BĐKH). Gia tăng dân số và thay đổi diện tích sử dụng đất đã làm gia tăng đáng kể nhiệt độ tại thành phố này.

Quá trình mở rộng xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu dân cư đã làm nhiệt độ ở những khu vực có mật độ xây dựng cao vượt hơn 4-6°C so với các khu vực ngoại ô xung quanh [10]. Bên cạnh đó, với vị trí địa lý ven biển miền Trung, Đà Nẵng nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng rõ rệt của BĐKH [1].

Số ngày và đêm nóng tại thành phố gia tăng, với ngày có nhiệt độ vượt ngưỡng 35oC đã tăng thêm từ hai đến bảy ngày mỗi thập kỷ. Những ngày có nhiệt độ rất cao, lên đến 37oC, cũng được dự báo sẽ xuất hiện nhiều hơn trong các tháng hè, từ tháng 4 đến tháng 10 trong năm [12]. Theo dự báo, người dân Đà Nẵng sẽ đối diện với nguy cơ căng thẳng nhiệt ở mức cao nếu không có các chiến lược cải thiện tiện nghi nhiệt ngoài trời.

Không gian ngoài trời trong đô thị mang lại nhiều lợi ích cho con người và xã hội. Môi trường thoải mái về nhiệt đáp ứng nhu cầu đi bộ hằng ngày và gia tăng các hoạt động ngoài trời, giúp nâng cao sức khỏe con người và đóng góp vào sức sống trong đô thị [8]. Cải thiện điều kiện nhiệt của môi trường ngoài trời do đó đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của một đô thị bền vững.

Hiện nay, đã có nhiều nghiên cứu cải thiện môi trường nhiệt ngoài trời được thực hiện ở nhiều vùng khí hậu khác nhau. Riêng tại khu vực Đông Nam Á, những nước với nền kinh tế khá như Malaysia hoặc cao như Singapore đã ghi nhận số lượng các nghiên cứu cải thiện tiện nghi nhiệt ngoài trời vượt trội; trong khi đó, số lượng các ấn phẩm ở các nước Indonesia, Việt Nam và Thái Lan còn khá hạn chế [7].

Đây là một khoảng trống nghiên cứu tương đối lớn, đặc biệt trong bối cảnh những đô thị lớn như Hà Nội, TP.HCM và Đà Nẵng đang chịu tác động mạnh mẽ của tình trạng đảo nhiệt đô thị và BĐKH.

Nhiều chiến lược cải thiện môi trường nhiệt ngoài trời đã được đề xuất, trong đó phổ biến nhất là điều chỉnh hình học đô thị, tích hợp cây xanh, sử dụng vật liệu phản xạ và sử dụng khối nước [4]. Mỗi chiến lược đều có tiềm năng làm giảm nhiệt độ ngoài trời riêng; mặc dù vậy, hiệu quả đạt được không đồng đều và phụ thuộc lớn vào đặc điểm không gian đô thị cũng như điều kiện khí hậu tại từng khu vực cụ thể.

Trong số các giải pháp này, hình học đô thị được chứng minh mang lại hiệu quả giảm nhiệt cao và ổn định nhất [9]. Khả năng làm mát của hình học đô thị ảnh hưởng đến vi khí hậu của môi trường đường phố ở cấp độ người đi bộ. Hầu hết những nghiên cứu về hình học đô thị thường tập trung vào việc tối ưu hóa hai yếu tố hình học là tỷ lệ hẻm núi đô thị-một chỉ số xác định bởi tỷ lệ giữa chiều cao công trình và chiều rộng mặt đường (H/W) và hướng của đường phố.

Đây là hai yếu tố hình học quan trọng quyết định khả năng tiếp nhận bức xạ mặt trời và vận tốc gió trong các hẻm núi đô thị [11]. Nghiên cứu này sẽ thực hiện đánh giá tác động của hai yếu tố này lên điều kiện vi khí hậu trong các hẻm núi tại TP Đà Nẵng.

2. Phương pháp nghiên cứu

2.1. Dữ liệu vi khí hậu

Đà Nẵng nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa với đặc điểm hai mùa rõ rệt, và có nền nhiệt độ trung bình năm tương đối cao, vào khoảng 25,9oC. Nghiên cứu này sử dụng giá trị dữ liệu trung bình của tháng 6, tháng nóng nhất trong năm tại Đà Nẵng, trích xuất từ dữ liệu đo đạc tại sân bay quốc tế Đà Nẵng năm 2004 đến 2018, để làm dữ liệu đầu vào tính toán các kịch bản mô phỏng. Biến thiên nhiệt độ không khí trong ngày tại Đà Nẵng có một số đặc điểm như sau.

Giá trị nhiệt độ trung bình thường ghi nhận mức thấp vào buổi sáng, dao động trung bình từ 26,3oC đến 26,6oC, và đạt mức cao vào thời gian buổi trưa, từ 11:00 đến 14:00, với nền nhiệt độ trung bình dao động từ 32,9oC đến 33,3oC; trong đó, một số ngày trong tháng ghi nhận mức giá trị rất cao, dao động từ 36,1oC đến 36,8oC.

Độ ẩm trung bình tại thành phố có chu kỳ dao động ngày đêm, với giá trị trung bình ghi nhận mức thấp vào buổi trưa, từ 63,9% đến 68,6%, và đạt mức cao vào buổi tối, với dao động từ 86,8% đến 89,4%. Bức xạ ngang toàn cầu thường ghi nhận giá trị lớn nhất trong ngày vào lúc giữa trưa với giá trị trung bình dao động từ 667,6 Wh/m2 đến 773,7 Wh/m2.

Hướng gió cũng có sự thay đổi đáng kể tùy theo thời gian trong ngày ở các tháng nóng. Hướng gió chính vào ban đêm thường dao động xung quanh mốc 210o (hướng Tây Nam); tuy nhiên, trong thời gian ban ngày, đặc biệt từ 11:00 đến 22:00, hướng gió tại thành phố phân tán tùy theo ngày, dao động xung quanh ba hướng chính là Tây Nam, Đông và Bắc.

Với đặc tính thay đổi không ổn định trong phần lớn thời gian trong ngày, hướng gió là một tham số khó kiểm soát khi áp dụng vào các mô phỏng tiện nghi nhiệt ngoài trời. Một hướng đường phố có thể được hưởng lợi từ hướng gió ngày hôm nay nhưng lại không duy trì được lợi thế đó vào những ngày sau.

Chính vì sự bất định khó kiểm soát này, để giảm thiểu yếu tố gây nhiễu và đảm bảo tính nhất quán khi so sánh giữa các kịch bản mô phỏng, một số nghiên cứu đã lựa chọn loại bỏ yếu tố này bằng cách giả định hướng gió luôn vuông góc với hướng đường phố trong các kịch bản mô phỏng [5].

2.2. Xây dựng kịch bản nghiên cứu

Nghiên cứu xây dựng kịch bản dựa theo hai tuyến đường khu vực chính của thành phố, là những tuyến đường có lòng đường rộng 5,5 m và 7,5 m. Theo quy chế quản lý kiến trúc của TP Đà Nẵng, chiều cao công trình ở những tuyến đường có lòng đường này sẽ có giới hạn tối đa [2].

Khi xét đến tỷ lệ mặt cắt ngang của hẻm núi, những tuyến đường rộng 5,5 m sẽ có tỷ lệ hẻm núi tối đa có thể là 2,65; trong khi đó, ở tuyến đường rộng 7,5 m, tỷ lệ tối đa có thể là 2,55. Như vậy, những tỷ lệ hẻm núi dưới ngưỡng 2,55 như 0,5; 1; 1,5; 2 và 2,5 là các tỷ lệ phản ánh đặc trưng hình học của công trình dạng nhà ống liền kề ở Đà Nẵng.

Trong nghiên cứu này, ba mức tỷ lệ 0,5; 1,5 và 2,5 được lựa chọn để đánh giá tác động khi gia tăng chiều cao của công trình. Từ cơ sở này, nghiên cứu xây dựng 12 kịch bản mô phỏng, dựa trên sự thay đổi ở ba mức tỷ lệ nêu trên và bốn hướng của đường phố (Hình 1).

Để dễ theo dõi và phân tích, mỗi kịch bản sau đó được ký hiệu dựa theo tỷ lệ của hẻm núi và hướng tương ứng. Theo đó, một kịch bản ví dụ được ký hiệu “1,5 N-S” sẽ mô tả một cấu hình có tỷ lệ H/W = 1,5 với hướng đường theo trục Bắc-Nam.

Hình 1. 12 kịch bản mô phỏng tỷ lệ hẻm núi đô thị dựa trên tham số hướng đường phố và tỷ lệ hẻm núi

2.3. Mô phỏng với ENVI-met v5.6.1

ENVI-met, một mô hình mô phỏng vi khí hậu ba chiều dạng lưới phát triển bởi Bruse (2004), được sử dụng để tính toán các kết quả trong nghiên cứu này. Nhờ khả năng xử lý với độ phân giải không gian cao (thường từ 0,5 đến 10 m), ENVI-met cung cấp các đầu ra tương đối chính xác, bao gồm nhiệt độ không khí (°C), độ ẩm tương đối (%), tốc độ gió (m/s), nhiệt độ bức xạ trung bình (°C), và bức xạ mặt trời [6].

Miền mô phỏng của nghiên cứu được thiết lập với kích thước 60 x 76 ô lưới, với độ phân giải mỗi ô 2 m. Mô hình mô phỏng bao gồm hai dãy nhà song song, cách nhau khoảng cách cố định 16 m, với chiều cao được thiết lập để tạo thành các hẻm núi tỷ lệ 0,5; 1,5 và 2,5. Ngày 10/6, một ngày hè điển hình với nhiệt độ cao, được lựa chọn để thực hiện mô phỏng, nhằm tái hiện quỹ đạo biểu kiến của mặt trời trong tháng nóng nhất của năm.

Những thông số khí tượng như nhiệt độ không khí, độ ẩm, bức xạ trực tiếp và khuếch tán được thiết lập thủ công dựa trên giá trị trung bình từng giờ trong ngày của tháng 6. Riêng vận tốc gió và hướng gió được thiết lập cố định, với vận tốc 2,1 m/s và luôn vuông góc với hướng của đường phố.

Các kết quả mô phỏng được trích xuất ở độ cao 1,4 m so với mặt nền, độ cao mà người đi bộ cảm nhận điều kiện không gian ngoài trời. Thời gian chạy mô hình được thiết lập trong 14 giờ, từ 6:00 đến 20:00. Ngoài ra, nghiên cứu không xét đến những yếu tố ảnh hưởng đến điều kiện tiện nghi nhiệt ngoài trời khác như sử dụng cây xanh hoặc sự thay đổi của bề mặt vật liệu. 

3. Kết quả 

3.1. Nhiệt độ không khí

Hình 2. Biến thiên theo giờ của nhiệt độ không khí theo tỷ lệ hẻm núi đô thị ở bốn hướng đường phố: (a) N-S; (b) NE-SW; (c) E-W; (d) NW-SE

Tỷ lệ hình học của hẻm phố cùng với hướng tuyến đường ảnh hưởng trực tiếp đến cả thời gian và cường độ bức xạ mặt trời tác động lên bề mặt đường, qua đó chi phối nhiệt độ không khí tại cao độ người đi bộ. Việc điều chỉnh các tham số hình học này dẫn đến sự thay đổi giá trị nhiệt độ không khí (Ta).

Hình 2 thể hiện biến thiên của nhiệt độ không khí khi tỷ lệ hẻm phố tăng dần ở bốn hướng đường khác nhau (Bắc-Nam, Đông-Tây, Đông Bắc-Tây Nam, Tây Bắc-Đông Nam). Kết quả cho thấy tỷ lệ hẻm núi cao mang lại hiệu quả giảm nhiệt độ không khí đáng kể. Ở tỷ lệ 2,5, tỷ lệ cao nhất trong các kịch bản khảo sát, giá trị nhiệt độ không khí ghi nhận mức thấp nhất trên tất cả các hướng đường phố.

Mức chênh lệch nhiệt độ trung bình của tỷ lệ hẻm núi này so với mức trung bình chung lần lượt là -0,6°C ở N-S, NE-SW, NW-SE và -0,4°C ở E-W. Mốc thời gian 14:00 ghi nhận mức giảm nhiệt độ lớn nhất, với mức giảm dao động từ 0,7°C đến 1,2oC.

Trong khi đó, mức chênh lệch nhỏ nhất thường ghi nhận vào buổi sáng sớm và chiều muộn, khi giá trị chênh lệch trung bình luôn dưới 0,2°C. Trái ngược với hiệu quả giảm nhiệt ở tỷ lệ hẻm phố cao, tại tỷ lệ thấp nhất (0,5), nhiệt độ không khí duy trì ở mức cao trong hầu hết thời gian trong ngày.

Chênh lệch trung bình của tỷ lệ hẻm núi này so với trung bình chung dao động từ 0,4oC đến 0,8oC. Thời điểm 15:00 ghi nhận mức nhiệt độ cao nhất ở tỷ lệ này, với chênh lệch so với trung bình chung lần lượt là +1,5°C ở N-S, +1,3°C ở NE–SW, +0,7°C ở E-W và +1°C ở NW-SE. 

3.2. Nhiệt độ bức xạ trung bình

Nhiệt độ bức xạ trung bình chịu ảnh hưởng trực tiếp từ vùng bóng đổ tạo ra bởi công trình, và do đó biến thiên theo sự thay đổi của tỷ lệ và hướng đường phố. Trong nghiên cứu này, nhiệt độ bức xạ trung bình ở mỗi kịch bản hẻm núi được phân tích dựa trên tần suất xuất hiện theo thời gian và không gian trong hẻm núi.

Phạm vi phân tích không gian được giới hạn ở khu vực giữa hai khối công trình có chiều rộng là 16 m và khoảng thời gian tính toán được thiết lập từ 6:00 đến 20:00. Kết quả tần suất phân bố Tmrt theo thời gian và không gian ở hai hướng đường phố N-S và E-W được minh họa trong Hình 3 dưới đây.

Hình 3. Biến thiên của Tmrt theo thời gian và không gian của ba tỷ lệ hẻm núi theo hai hướng đường phố: (a) hướng Bắc-Nam và (b) hướng Đông-Tây.

Dựa trên vùng biến thiên nhiệt độ bức xạ trung bình ở tỷ lệ hẻm núi 0,5, có thể nhận thấy vùng giá trị trên 50oC chiếm tần suất rất lớn, với tỷ lệ lần lượt 45,8% ở hướng N-S, 48,3% ở NE-SW, 55% ở E-W và 51,7% ở NW-SE. Vùng giá trị này thể hiện những khu vực bề mặt đường phố chịu tác động trực tiếp từ bức xạ mặt trời và do đó giá trị Tmrt tương đối cao.

Ngưỡng giá trị Tmrt trên 50oC do đó được sử dụng làm mốc chính để đánh giá tác động khi thay đổi tỷ lệ hẻm núi và hướng đường phố. Từ kết quả vùng Tmrt này ở ba kịch bản tỷ lệ hẻm núi, có thể thấy rằng, gia tăng tỷ lệ hẻm núi giúp giảm vùng Tmrt nóng ở tất cả các hướng đường phố (Hình 4).

Các tỷ lệ hẻm núi lớn mang lại hiệu quả giảm Tmrt đáng kể. Tần suất vùng Tmrt nóng ở tỷ lệ hẻm núi 2,5 có giá trị thấp nhất ở mọi hướng đường phố, với 1,7% (N-S), 5% (NE-SW), 19,2% (E-W) và 9,2% (NW-SE).

Khi so với tỷ lệ 0,5, chênh lệch vùng Tmrt luôn ở mức cao nhất, với mức giảm tuyệt đối ở hai hướng lần lượt là 44,2 điểm phần trăm (N-S), 43,3 p.p. (NE-SW), 35,8 p.p. (E-W) và 42,5 p.p. (NW-SE). Vùng Tmrt nóng có xu hướng giảm đồng đều cùng với sự gia tăng của tỷ lệ hẻm núi. Khi gia tăng tỷ lệ hẻm núi, vùng Tmrt nóng có xu hướng giảm đồng đều ở tất cả các hướng phố, với giá trị trung bình lần lượt là 50,2% (H/W = 0,5), 24,2% (H/W = 1,5) và 8,8% (H/W = 2,5). 

Hình 4. Tần suất vùng Tmrt trên 50oC ở bốn hướng đường phố của ba tỷ lệ hẻm núi

Hướng đường phố cũng là một yếu tố quan trọng chi phối vùng bóng đổ của công trình và do đó tác động trực tiếp đến bức xạ trung bình trong các hẻm núi. Dựa trên kết quả tần suất vùng Tmrt nóng, có thể nhận thấy rằng trong bốn hướng đường phố, hướng N-S luôn duy trì giá trị vùng Tmrt nóng thấp nhất ở mọi tỷ lệ hẻm núi.

So với mức trung bình chung, vùng Tmrt nóng ở hướng này luôn thấp hơn, với chênh lệch tuyệt đối lần lượt là -4,4 điểm phần trăm (H/W = 0,5),-8,3 p.p. (H/W = 1,5) và -7,1 p.p. (H/W = 2,5). Ở hướng đường phố này, công trình hai bên luôn tạo bóng đổ luân phiên che chắn một phần bề mặt đường phố trong ngày, dẫn đến vùng Tmrt nóng tương đối thấp hơn khi so với các hướng khác.

Ngược lại, hướng E-W luôn ghi nhận giá trị vùng Tmrt nóng cao nhất ở tất cả các tỷ lệ hẻm núi. Vùng bóng đổ của công trình ở hướng đường phố này chỉ che chắn được một phần bề mặt đường ở phía Bắc; trong khi đó, nửa mặt đường ở phía Nam luôn tiếp xúc với bức xạ trực tiếp từ mặt trời trong ngày và do đó vùng Tmrt nóng ở hướng đường phố này thường bắt đầu sớm và kéo dài hầu hết thời gian trong ngày.

Đối với hai hướng trung gian, vùng Tmrt nóng ở hướng NW–SE luôn có giá trị cao hơn so với NE–SW; mặc dù vậy, chênh lệch vùng Tmrt nóng giữa hai hướng đường phố này tương đối nhỏ, luôn duy trì dưới 5 điểm phần trăm.

3.3. Nhiệt độ sinh lý tương đương (PET)

Hình 5. Biến thiên của PET theo thời gian và không gian của ba tỷ lệ hẻm núi theo hai hướng đường phố: (a) hướng Bắc-Nam và (b) hướng Đông-Tây.

Chỉ số nhiệt độ sinh lý tương đương (PET – Physiologically Equivalent Temperature) được sử dụng để đánh giá tác động của tỷ lệ hẻm núi và hướng đường phố lên điều kiện tiện nghi nhiệt ngoài trời ở mỗi kịch bản. Việc phân tích PET được thực hiện dựa trên tần suất xuất hiện theo thời gian và không gian của vùng giá trị này trong hẻm núi.

Dựa trên kết quả biến thiên của chỉ số PET, có thể thấy trong kịch bản hẻm núi thấp (H/W = 0,5), vùng có giá trị PET vượt 57°C chiếm tần suất rất lớn, lần lượt là 61,7% (N-S), 63,3% (NE-SW) và 65,8% (E-W và NW-SE) (Hình 5). Ngưỡng PET nóng này do đó được chọn làm mốc chính để đánh giá tác động của tỷ lệ hẻm núi và hướng đến vùng tiện nghi nhiệt ngoài trời.

Hình 6 thể hiện tần suất vùng PET trên 57oC khi gia tăng tỷ lệ hẻm núi ở bốn hướng đường phố. Gia tăng tỷ lệ hẻm núi cho mức giảm vùng PET nóng ở tất cả các hướng đường phố. Những tỷ lệ hẻm núi lớn mang lại hiệu quả giảm vùng PET nóng đáng kể.

Trong đó, tỷ lệ hẻm núi cao nhất (H/W = 2,5) ghi nhận tần suất PET nóng thấp nhất, với giá trị lần lượt 10% (N-S), 14,2% (NE-SW), 26,7% (E-W) và 15,8% (NW-SE). Việc gia tăng chiều cao công trình giúp mở rộng vùng bóng đổ, giảm bức xạ trực tiếp từ mặt trời và cải thiện vùng PET nóng trong các hẻm núi.

Mặc dù vậy, mức giảm vùng PET nóng không đồng đều giữa các mức gia tăng của tỷ lệ hẻm núi. Gia tăng từ tỷ lệ 0,5 lên 1,5 cho hiệu quả giảm tần suất PET nóng lớn nhất, với mức giảm vùng PET nóng trung bình lên đến 36,7%. Ngược lại, gia tăng từ tỷ lệ 1,5 lên 2,5 cho hiệu quả thấp hơn đáng kể, với mức giảm trung bình chỉ 10,8%.

Hình 6. Tần suất vùng PET trên 57oC ở bốn hướng đường phố của ba tỷ lệ hẻm núi

Giống với biến thiên vùng Tmrt nóng, vùng PET nóng ở hướng N-S cũng luôn duy trì giá trị thấp nhất ở mọi kịch bản tỷ lệ hẻm núi. Trong khi đó, vùng PET nóng ở hướng E-W luôn duy trì ở mức cao chất ở tất cả các tỷ lệ hẻm núi. Thời gian xuất hiện vùng PET nóng cũng thay đổi ở mỗi hướng đường phố khác nhau.

Ở mốc tỷ lệ 1,5 và 2,5, vùng PET nóng ở hướng N-S luôn xuất hiện muộn hơn so với các hướng còn lại, lần lượt vào lúc 10:00 (H/W = 1,5) và 11:00 (H/W = 2,5); nhưng đồng thời, cũng kết thúc sớm hơn. Thời gian vùng PET nóng bao phủ phần lớn bề mặt đường ở hướng này cũng xảy ra tương đối ngắn, chỉ tập trung quanh mốc 12:00. Bóng đổ từ các công trình hai bên ở hướng đường phố này che phủ luân phiên trong suốt thời gian trong ngày, giúp bề mặt đường phố luôn được che chắn một phần vào buổi sáng và buổi chiều.

Khác với sự xuất hiện muộn và kết thúc sớm của vùng PET nóng ở hướng N-S, vùng PET nóng ở hướng E-W hình thành sớm và kéo dài gần như suốt cả ngày, bắt đầu từ 8:00 và chỉ kết thúc trước 17:00. Ở hướng đường phố này, mặt đường hướng Nam chịu tác động mạnh và kéo dài bởi bức xạ mặt trời, khiến vùng PET nóng hầu như tập trung chủ yếu ở mặt hướng này.

Thời gian vùng PET nóng bao phủ phần lớn bề mặt đường ở hướng này cũng kéo dài hơn, từ 11:00 đến 13:00. Ở hai hướng trung gian, bóng đổ từ công trình hai bên đường cũng luân phiên che chắn mặt đường giống như ở hướng N-S.

Tuy nhiên, dãy công trình theo hướng NE-SW cho phép ánh sáng mặt trời xâm nhập vào hẻm phố sớm hơn vào buổi sáng; ngược lại, công trình ở hướng NW-SE tạo ít bóng đổ hơn vào đầu giờ chiều. Thời gian bắt đầu vùng PET nóng xuất hiện sớm hơn ở hướng NE-SW và kết thúc cùng lúc so với hướng N-S. Trong khi đó, vùng PET nóng ở hướng NW-SE có xu hướng xuất hiện trễ hơn, nhưng kéo dài hơn vào buổi chiều.

4. Kết luận

Nghiên cứu này thực hiện đánh giá tác động của tỷ lệ hẻm núi và hướng đường phố lên tiện nghi nhiệt ngoài trời khu vực dân cư trong điều kiện khí hậu TP Đà Nẵng. Từ dữ liệu phân tích, nghiên cứu có một số kết quả đầu ra như sau.

Tỷ lệ hẻm núi có ảnh hưởng đáng kể đến các chỉ số nhiệt trong hẻm phố tại Đà Nẵng, với giá trị thấp nhất được ghi nhận ở tỷ lệ hẻm núi cao nhất (2,5) và ngược lại. Đối với nhiệt độ không khí, tác động giảm nhiệt khi gia tăng tỷ lệ hẻm núi thường rõ rệt vào buổi trưa (11:00-13:00), giai đoạn bức xạ mặt trời trực tiếp lớn nhất trong ngày. Đối với nhiệt độ bức xạ trung bình và PET, việc gia tăng tỷ lệ hẻm núi giúp giảm tần suất xuất hiện vùng Tmrt và PET nóng ở tất cả các hướng phố. 

Cùng với tỷ lệ hẻm núi, hướng đường phố cũng tác động đáng kể lên các chỉ số nhiệt trong các hẻm núi. Trong bốn hướng đường phố, hướng N-S được coi là hướng thuận lợi nhất cho tiện nghi nhiệt ngoài trời. Nhiệt độ không khí ở hướng đường phố này luôn duy trì ở mức thấp ở mọi kịch bản tỷ lệ hẻm núi.

Vùng Tmrt và PET nóng ở hướng đường phố này có tần suất xuất hiện cũng ở mức tối thiểu, với thời gian bắt đầu muộn và kết thúc sớm hơn. Thời gian bất lợi nhất cho tiện nghi nhiệt ở hướng đường phố này chỉ diễn ra ngắn, quanh mốc 12:00, khi phần lớn bề mặt đường ghi nhận vùng PET nóng trong thời gian này. Trái ngược với hướng N-S, hướng E-W được coi là một hướng bất lợi nhất cho tiện nghi nhiệt ngoài trời.

Nhiệt độ không khí luôn đạt giá trị cao trong tất cả các kịch bản tỷ lệ hẻm núi ở hướng đường phố này. Tần suất xuất hiện của các vùng Tmrt và PET nóng cũng ở mức tối đa, với thời điểm xuất hiện sớm nhất và kết thúc muộn nhất trong bốn hướng khảo sát. Hướng đường phố này do đó cần thêm các chiến lược thụ động khác như gia tăng cây xanh để cải thiện điều kiện nhiệt ngoài trời.

Hai hướng trung gian (NE-SW và NW-SE) có nhiều đặc điểm tương đồng so với N-S. Vùng bóng đổ từ công trình hai bên ở hai hướng này cũng luân phiên che chắn bề mặt đường phố trong ngày. Tuy nhiên, ở hướng NE-SW, thời gian vùng PET nóng xuất hiện sớm hơn, nhưng kết thúc sớm; ngược lại, vùng PET nóng ở NW-SE tuy xuất hiện muộn hơn nhưng kéo dài hơn vào buổi chiều.

Nguyễn Hoàng Anh – NCS Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội;
Ngô Thị Kim Dung – Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1]. Cảnh, Đ. T. N., L. Dân, and V. N. Dương, “Đánh giá xu thế biến đổi của các yếu tố khí tượng thủy văn khu vực Quảng Nam – Đà Nẵng bằng phương pháp ước lượng phi tham số,” Tạp chí Khoa học và Công nghệ – Đại học Đà Nẵng, pp. 8-13, 2021.
[2]. Quyết định số 63/2023/QĐ-UBND, “Quy chế quản lý kiến trúc thành phố Đà Nẵng, ngày 28/12/2023,” 2023.
[3]. Quyết định số 359/QĐ-TTg, “Phê duyệt Điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.,” 2021.
[4]. Abdollahzadeh, N. and N. Biloria, “Outdoor thermal comfort: Analyzing the impact of urban configurations on the thermal performance of street canyons in the humid subtropical climate of Sydney,” Frontiers of Architectural Research, vol. 10, no. 2, pp. 394-409, 2021.
[5]. Ali-Toudert, F. and H. Mayer, “Numerical study on the effects of aspect ratio and orientation of an urban street canyon on outdoor thermal comfort in hot and dry climate,” Build Environ, vol. 41, no. 2, pp. 94-108, 2006.
[6]. Bruse, M. and H. Fleer, “Simulating surface-plant-air interactions inside urban environments with a three dimensional numerical model,” Environmental Modelling & Software, vol. 13, no. 3-4, pp. 373-384, 1998.
[7]. Fong, C. S., N. Aghamohammadi, L. Ramakreshnan, N. M. Sulaiman, and P. Mohammadi, “Holistic recommendations for future outdoor thermal comfort assessment in tropical Southeast Asia: A critical appraisal,” Sustain Cities Soc, vol. 46, p. 101428, 2019.
[8]. Huang, Z., B. Cheng, Z. Gou, and F. Zhang, “Outdoor thermal comfort and adaptive behaviors in a university campus in China’s hot summer-cold winter climate region,” Build Environ, vol. 165, p. 106414, 2019.
[9]. Lai, D., W. Liu, T. Gan, K. Liu, and Q. Chen, “A review of mitigating strategies to improve the thermal environment and thermal comfort in urban outdoor spaces,” Science of The Total Environment, vol. 661, pp. 337-353, 2019.
[10]. Linh, N. H. K. and H. Van Chuong, “Assessing the impact of urbanization on urban climate by remote sensing perspective: A case study in Danang city, Vietnam,” International Archives of the Photogrammetry, Remote Sensing and Spatial Information Sciences – ISPRS Archives, vol. 40, no. 7W3, pp. 207-212, 2015.
[11]. Oke, T. R., “Street design and urban canopy layer climate,” Energy Build, vol. 11, no. 1-3, pp. 103-113, 1988.
[12]. Opitz-Stapleton, S., L. Sabbag, K. Hawley, P. Tran, L. Hoang, and P. H. Nguyen, “Heat index trends and climate change implications for occupational heat exposure in Da Nang, Vietnam,” Clim Serv, vol. 2-3, pp. 41-51, 2016.

Có thể bạn cũng quan tâm

Nâng cao chất lượng không gian công cộng ven sông Hàn tăng cường trải nghiệm du lịch đô thị Đà Nẵng

Đà Nẵng thu hồi một phần dự án ‘treo’ Hòn Ngọc Á Châu để làm công viên

Đà Nẵng xây dựng công viên cảnh quan ven sông Hàn

Đà Nẵng: Quản lý đô thị bằng công nghệ số

Tạo sức bật mới để Đà Nẵng phát triển

TỪ KHÓA:điều kiện vi khí hậuđô thị Đà Nẵnghẻm núi đô thị
NGUỒN:Tạp chí Xây dựng
Bài trước Thiếu không gian xanh, nông nghiệp đô thị mở hướng đầu tư mới
Bài tiếp Trình tự, thủ tục bán nhà ở xã hội của chủ đầu tư
Ad imageAd image

Mới cập nhật

Đầu tư hệ thống xử lý nước thải đô thị, cách nào?
Phản biện 05/12/2025
Hà Nội khẩn cấp xây 8 hồ rộng gần 150 ha, tăng sức chống ngập đô thị
Tin trong nước 05/12/2025
AkzoNobel ghi dấu ấn tại ZAK World of Façades Việt Nam 2025: Định hình tương lai của kiến trúc mặt dựng bền vững
Vật liệu xây dựng 04/12/2025
TP.HCM thống nhất chủ trương dự án mở rộng đường Nguyễn Tất Thành và xây cầu Tân Thuận 1
Kinh tế / Pháp luật 04/12/2025
Flow Villa: Khả năng biến hóa của vật liệu mây tre
Kiến trúc 04/12/2025
Triển lãm “Khám phá của trẻ em về Hệ sinh thái Sông Hồng”
Sự kiện 03/12/2025
TP.HCM ban hành đề án nguồn nhân lực cho hệ thống đường sắt đô thị
Tin trong nước 03/12/2025
Giá căn hộ tăng mạnh, làm thế nào để người dân tiếp cận nhà ở?
Bất động sản 03/12/2025
Indonesia: Nạn phá rừng làm gia tăng lũ lụt gây thương vong
Tin thế giới 02/12/2025
Sản phẩm nhôm kính chất lượng từ TID Facade
Trang thiết bị 02/12/2025
- Advertisement -
Ad imageAd image

Xem thêm

Tin trong nước

Phân cấp thẩm quyền phê duyệt điều chỉnh cục bộ quy hoạch đô thị cho UBND TP Đà Nẵng

Ashui.com 01/11/2024
Tin trong nước

Thủ tướng chủ trì Hội nghị triển khai Nghị quyết 136 của Quốc hội về thành phố Đà Nẵng

Ashui.com 01/09/2024
Tin trong nước

Đà Nẵng: Sẽ phát triển nhiều bến du thuyền và các dịch vụ liên quan

Ashui.com 31/05/2024
Tin trong nước

Đà Nẵng: Đánh giá hiện trạng và đề xuất toàn diện quy hoạch cao độ nền và thoát nước mặt thành phố

Ashui.com 12/05/2024
© 2000-2025 Ashui.com. All Rights Reserved.
Welcome back!

Sign in to your account

Username hoặc Email của bạn
Mật khẩu

Quên mật khẩu?