By using this site, you agree to the Privacy Policy and Terms of Use.
Accept
Ashui.comAshui.comAshui.com
  • Home
    • Bookmarks
    • English
      • News
      • Projects
      • Products
    • Ashui Awards
    • Giới thiệu
    • Quảng cáo / PR
    • Liên hệ
  • Tin tức / Sự kiện
    • Tin trong nước
    • Tin thế giới
    • Sự kiện
    Tin tức / Sự kiệnĐọc tiếp
    Phiên họp thứ nhất của Tổ công tác liên ngành điều phối xây dựng, triển khai đồng bộ đô thị thông minh
    TTXVN 16/07/2025
    TP.HCM dự chi 7 tỷ USD xây Trung tâm tài chính quốc tế hiện đại bậc nhất khu vực
    Báo Xây dựng 16/07/2025
    [Cà phê Net Zero] Quản lý và tái chế chất thải rắn Xây dựng theo mô hình liên kết Nhà nước – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp
    Ashui.com 15/07/2025
    KNC FACADE khởi xướng đối thoại kiến trúc mới với “Touch The Future: Facade or Identity?”
    ConsMedia 14/07/2025
    TPHCM sẽ hoàn tất cải tạo chung cư cũ 10 năm nữa
    KTSG Online 14/07/2025
  • Chuyên mục
    • Kiến trúc
    • Nội – ngoại thất
    • Quy hoạch đô thị
    • Bất động sản
    • Năng lượng – Môi trường
    • Phong thủy
  • Công nghệ
    • Công nghệ mới
    • Giải pháp
    • Xu hướng
    • Ứng dụng
  • Vật liệu / Thiết bị
    • Vật liệu xây dựng
    • Trang thiết bị
    • Trang trí nội thất
    • Thị trường
  • Dự án
    • Giới thiệu dự án
    • Tư vấn thiết kế
    • Kinh tế / Pháp luật
  • Tương tác
    • Chuyên đề
    • Góc nhìn
    • Phản biện
    • Đối thoại
    • Q&A
    • Điểm đến
    • Nhìn ra thế giới
  • Cộng đồng
    • Kiến trúc sư
    • Kỹ sư
    • Thiết kế / Sáng tạo
    • Sinh viên
    • Tuyển dụng
    • CLB Điện ảnh Kiến trúc
    • CLB Kiến trúc Xanh TPHCM
Font ResizerAa
Ashui.comAshui.com
Font ResizerAa
  • Home
  • Tin tức / Sự kiện
  • Chuyên mục
  • Công nghệ
  • Vật liệu / Thiết bị
  • Dự án
  • Tương tác
  • Cộng đồng
  • Home
    • Bookmarks
    • English
    • Ashui Awards
    • Giới thiệu
    • Quảng cáo / PR
    • Liên hệ
  • Tin tức / Sự kiện
    • Tin trong nước
    • Tin thế giới
    • Sự kiện
  • Chuyên mục
    • Kiến trúc
    • Nội – ngoại thất
    • Quy hoạch đô thị
    • Bất động sản
    • Năng lượng – Môi trường
    • Phong thủy
  • Công nghệ
    • Công nghệ mới
    • Giải pháp
    • Xu hướng
    • Ứng dụng
  • Vật liệu / Thiết bị
    • Vật liệu xây dựng
    • Trang thiết bị
    • Trang trí nội thất
    • Thị trường
  • Dự án
    • Giới thiệu dự án
    • Tư vấn thiết kế
    • Kinh tế / Pháp luật
  • Tương tác
    • Chuyên đề
    • Góc nhìn
    • Phản biện
    • Đối thoại
    • Q&A
    • Điểm đến
    • Nhìn ra thế giới
  • Cộng đồng
    • Kiến trúc sư
    • Kỹ sư
    • Thiết kế / Sáng tạo
    • Sinh viên
    • Tuyển dụng
    • CLB Điện ảnh Kiến trúc
    • CLB Kiến trúc Xanh TPHCM
Các kênh mạng xã hội
  • Advertise
© 2000-2025 Ashui.com. All Rights Reserved.
Kiến trúc

Cải tạo kiến trúc nhà ở truyền thống dân tộc Thái vùng Tây Bắc Việt Nam theo hướng bền vững

Nhà ở truyền thống của người Thái ở khu vực Tây Bắc Việt Nam không chỉ là không gian cư trú mà còn mang trong mình những giá trị văn hóa, lịch sử và sinh thái đặc sắc. Tuy nhiên, dưới tác động của quá trình chuyển đổi kinh tế - xã hội và hiện đại hóa, loại hình kiến trúc này đang đứng trước nguy cơ mai một. Nghiên cứu này nhằm đánh giá thực trạng, nhận thức của cộng đồng và định hướng cải tạo nhà ở truyền thống người Thái theo hướng bền vững. Thông qua khảo sát thực địa, phỏng vấn sâu và xây dựng ba phương án cải tạo thí điểm tại bản Vàng Pheo, nghiên cứu đề xuất cách tiếp cận cải tạo bền vững dựa vào cộng đồng, vừa bảo tồn các giá trị cốt lõi của kiến trúc truyền thống, vừa cải thiện điều kiện sống. Kết quả nghiên cứu đóng góp cho diễn đàn học thuật về tái sinh di sản theo hướng bền vững, đồng thời cung cấp các gợi ý thực tiễn cho chính sách địa phương và thực hành kiến trúc.

Ashui.com 27/06/2025
82 phút đọc
SHARE
Nội dung
1. Mở đầu2. Tổng quan3. Khung lý thuyết3.1. Kiến trúc bản địa3.2. Các khái niệm và nguyên tắc phát triển bền vững3.3. Lý thuyết cải tạo kiến trúc truyền thống3.4. Phát triển bền vững trong kiến trúc nhà ở truyền thống4. Phương pháp nghiên cứu5. Kết quả và bàn luận5.1. Giá trị kiến trúc nhà ở truyền thống của người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam5.2. Thực trạng nhà ở truyền thống dân tộc Thái vùng Tây Bắc5.3. Nhận thức cộng đồng và nhu cầu cải tạo nhà ở truyền thống dân tộc Thái5.4. Định hướng cải tạo nhà ở truyền thống dân tộc Thái theo hướng bền vững5.5. Nghiên cứu trường hợp tại bản Vàng Pheo5.6. Bàn luận6. Kết luận và Kiến nghị6.1. Kết luận6.2. Kiến nghịLời cảm ơn

1. Mở đầu

Vùng Tây Bắc, nằm ở khu vực núi phía Tây Bắc của Việt Nam, có tọa độ địa lý từ 15° đến 22° vĩ Bắc và từ 102° đến 107° kinh Đông. Về mặt địa lý, khu vực này giáp với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ở phía Bắc, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ở phía Tây, vùng Đông Bắc Việt Nam ở phía Đông, và tỉnh Thanh Hóa ở phía Nam. Vùng Tây Bắc bao gồm các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, và Yên Bái, với tổng diện tích 50.576 km², chiếm 15,3% diện tích toàn quốc.

Đặc trưng của vùng Tây Bắc là địa hình cao và chia cắt mạnh mẽ, với các dãy núi cao, thung lũng sâu, hẻm vực, và các cao nguyên đá vôi có độ cao trung bình. Địa hình phức tạp, kết hợp với sự phân chia bởi các dãy núi, sông suối, đã hình thành nên các thung lũng, trong đó một số thung lũng lớn đã phát triển thành các lòng chảo như tại các tỉnh Nghĩa Lộ và Điện Biên.

Với địa hình đồi núi phức tạp, vùng Tây Bắc là nơi phát triển một hệ thống sông suối dày đặc và phong phú, bao gồm những con sông lớn như sông Hồng, sông Đà, chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, và thượng nguồn sông Mã, chảy từ tỉnh Điện Biên tới phía Tây tỉnh Sơn La rồi ngoặt sang Lào. Bên cạnh đó, vùng Tây Bắc còn sở hữu nguồn khoáng sản phong phú, đặc biệt là khoáng nóng, với hơn 60 nguồn, tạo tiềm năng lớn cho phát triển du lịch.

Khí hậu vùng Tây Bắc Việt Nam đa dạng bao gồm nhiều vùng tiểu khí hậu. Mặc dù nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, nhưng do ở một độ cao từ 800-3000m nên khí hậu ngả sang á nhiệt đới và nhiều vùng cao có cả khí hậu ôn đới. Các tiểu vùng có khí hậu khác nhau rõ rệt, trong khi vùng thung lũng tương đối ấm áp thì ở vùng cao nguyên rất lạnh. Chênh lệch nhiệt độ giữa mùa đông và mùa hè lớn, mùa đông có nơi nhiệt độ thấp nhất dưới 0oC, mùa hè nơi nhiệt độ cao nhất có thể trên 40oC [1].

Dân tộc Thái là một trong 53 dân tộc thiểu số có dân số đông thứ 3 tại Việt Nam, dân số theo thống kê năm 2019 là 1.820.950 người, chiếm khoảng 1,74%  dân số cả nước. Người Thái cư trú tập trung tại các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái, Hòa Bình thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam, ngoài ra còn có Nghệ An và Thanh Hóa thuộc miền Bắc Trung Bộ. Dân tộc Thái được phân chia thành nhiều nhóm: Thái Trắng, Thái Đen, Thái Đỏ, Thái Mường Vạt, Thái Do, Thái Thanh, Thái Lự và Thái Đà Bắc, trong đó nhóm người Thái Trắng và Thái Đen chiếm đại đa số nên thường chỉ kể đến 2 nhóm là Thái Trắng và Thái Đen. Người Thái có nền văn hóa mang tính riêng biệt được được thể hiện qua nhiều mặt như lối sống,  phong tục, tập quán, trang phục, ẩm thực và các sinh hoạt cộng đồng [2].

Vùng Tây Bắc Việt Nam và vị trí các tỉnh có nhiều người Thái sinh sống

Nhà ở truyền thống của người Thái vùng Tây Bắc chủ yếu là nhà sàn để thích ứng với địa hình đồi núi, tránh lũ lụt và ẩm ướt, đồng thời tạo không gian sống thoáng mát. Nhà thường có cấu trúc hình chữ nhật, chia thành nhiều gian với các chức năng khác nhau như gian khách, gian thờ, các gian ngủ, bếp,… Nhà được xây dựng chủ yếu từ các vật liệu tự nhiên như gỗ, tre, nứa, lá,… Mái nhà có độ dốc lớn giúp thoát nước nhanh chóng trong mùa mưa. Ngôi nhà truyền thống của dân tộc Thái, với cấu trúc độc đáo và mối quan hệ chặt chẽ với môi trường tự nhiên, không chỉ đóng vai trò là không gian cư trú mà còn hàm chứa những giá trị văn hóa, xã hội và sinh thái sâu sắc [3, 4].

Tuy nhiên, do nhiều lý do như quá trình đô thị hóa, nhu cầu cuộc sống hiện đại, khó khăn trong việc bảo tồn, biến đổi khí hậu, tác động tiêu cực của du lịch,… mà nhà ở truyền thống của dân tộc Thái tại vùng Tây Bắc Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng. Trước hết, số lượng nhà sàn truyền thống đang suy giảm nhanh chóng do xu hướng chuyển đổi sang nhà xây trên mặt đất theo kiểu người Kinh hoặc nhà bê tông cốt thép kiên cố nhằm đáp ứng yêu cầu về công năng và tiết kiệm chi phí. Nhiều ngôi nhà sàn còn sót lại cũng đã bị biến đổi đáng kể về mặt hình thức, vật liệu và cấu trúc, làm mất đi tính nguyên bản vốn có như bỏ không gian bếp truyền thống, thay mái lá bằng fibro xi măng hoặc tôn, bỏ các chi tiết trang trí truyền thống, cầu thang gỗ, vách ngăn bằng tre nứa [3].

Với những lý do nêu trên, việc cải tạo kiến trúc nhà ở truyền thống của dân tộc Thái theo hướng bền vững không chỉ là yêu cầu mang tính kỹ thuật mà còn là một nhiệm vụ cấp thiết về mặt văn hóa, xã hội và môi trường. Kiến trúc nhà sàn truyền thống là một phần không thể tách rời trong hệ giá trị văn hóa của người Thái, thể hiện sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên và cộng đồng. Nếu không có các giải pháp cải tạo kịp thời và phù hợp, di sản kiến trúc quý báu này có nguy cơ bị thay thế hoàn toàn bởi những mô hình nhà ở hiện đại, xa lạ với văn hóa bản địa [2, 3].

Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích thực trạng và giá trị kiến trúc nhà ở truyền thống của dân tộc Thái vùng Tây Bắc Việt Nam, từ đó đề xuất định hướng cải tạo theo hướng bền vững nhằm vừa bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, vừa đáp ứng các yêu cầu về chức năng sử dụng hiện đại, thích ứng khí hậu và phát triển du lịch cộng đồng.

Từ bối cảnh và mục tiêu trên, nghiên cứu tập trung làm rõ các câu hỏi sau:

  1. Kiến trúc nhà ở truyền thống của người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam hiện nay có những đặc trưng và giá trị gì cần được bảo tồn?
  2. Thực trạng biến đổi và mai một kiến trúc truyền thống hiện nay diễn ra ra sao, nguyên nhân từ đâu?
  3. Những nguyên tắc và giải pháp cải tạo nào có thể đảm bảo tính bền vững về văn hóa, xã hội và môi trường trong không gian sống của cộng đồng người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam?

Nghiên cứu này hướng đến việc nhận diện giá trị kiến trúc, thực trạng và các nguyên nhân của sự giảm sút số lượng nhà ở truyền thống của người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam, từ đó đề xuất định hướng cải tạo theo hướng bền vững. Việc cải tạo không chỉ giúp bảo tồn bản sắc văn hóa mà còn nâng cao chất lượng sống, thích ứng với điều kiện khí hậu và phát triển du lịch cộng đồng. Các kết quả nghiên cứu có thể làm cơ sở tham khảo cho chính sách phát triển vùng và là mô hình áp dụng cho các cộng đồng dân tộc thiểu số khác tại miền núi phía Bắc Việt Nam.

2. Tổng quan

Kiến trúc nhà ở truyền thống dân tộc Thái vùng Tây Bắc Việt Nam đã được nhiều nhà nghiên cứu trong nước khảo cứu dưới góc độ nhân học, văn hóa và kiến trúc dân gian. Nguyễn Khắc Tụng (1978) và Vương Trung (2018) đã nghiên cứu kiến trúc nhà ở truyền thống của người Thái trước năm 1954, nhấn mạnh đặc điểm sử dụng vật liệu bản địa như gỗ, tre, nứa và lá gianh. Các công trình này tập trung mô tả cấu trúc kiến trúc, kỹ thuật xây dựng cũng như tổ chức không gian sinh hoạt trong ngôi nhà sàn truyền thống của người Thái trong bối cảnh xã hội – văn hóa đương thời [5, 6]. Nguyễn Văn Tố (2003) và Viện Dân tộc học (2005) xác định nhà sàn Thái là biểu hiện đặc trưng của sự thích nghi giữa con người với môi trường tự nhiên, đồng thời là không gian chứa đựng các tầng lớp biểu tượng xã hội, tín ngưỡng và tổ chức gia đình [7, 8]. Nghiên cứu của Lò Văn Hựu & Đinh Thị Hòa (2019) phân tích sâu cấu trúc hình thể nhà sàn như mặt bằng, độ cao, cấu tạo tường và mái, và các vật liệu bản địa, cho thấy sự nhất quán giữa công năng sử dụng và tính biểu cảm văn hóa [9]. Bên cạnh đó, Lò Văn Hựu & Nguyễn Minh Tuấn (2020) làm rõ vai trò của không gian sinh hoạt cộng đồng trong tổ chức nội thất truyền thống – nơi các giá trị cộng đồng, sự phân tầng tuổi tác và giới tính cùng các nghi lễ bản địa được duy trì và tái tạo [10].

Quá trình đô thị hóa, sự thay đổi lối sống, phát triển du lịch,… trong những thập niên gần đây đã tác động mạnh mẽ đến kiến trúc nhà ở truyền thống của người Thái. Trần Hồng Minh (2018) cảnh báo về sự mai một nhanh chóng của nhà sàn do áp lực thay đổi công năng ngôi nhà, sử dụng vật liệu và kết cấu hiện đại, thiếu chính sách hỗ trợ bảo tồn nhà ở truyền thống [11]. Nhiều nghiên cứu như của Phạm Hùng Cường (2015), Nguyễn Hữu Thế (2015), Nguyễn Hồng Thao & Đặng Thị Thu Hà (2021) chỉ ra rằng nhà sàn hiện nay đang bị biến đổi về hình thức, không gian, và vật liệu – từ đó làm suy giảm giá trị bản sắc và khả năng thích ứng môi trường của kiến trúc truyền thống [12, 13, 14].

Trong bối cảnh nêu trên, một số nghiên cứu trong nước đã đề cập đến khả năng tái sử dụng thích ứng kiến trúc truyền thống. Nguyễn Hữu Thế (2015) đề xuất cải tạo nhà sàn phục vụ du lịch cộng đồng cần giữ lại cấu trúc truyền thống cốt lõi, đồng thời bổ sung tiện nghi hiện đại theo hướng tối giản, tiết kiệm năng lượng [12]. Một số mô hình cải tạo kiến trúc truyền thống đã được triển khai ở các làng du lịch cộng đồng như bản Lác (Hòa Bình), bản Pom Coọng (Mai Châu), và bản Mòng (Sơn La) cho thấy sự thành công bước đầu của việc tích hợp nhà ở truyền thống với hoạt động du lịch. Tuy nhiên, các nghiên cứu của Phạm Hùng Cường (2015), Nguyễn Hồng Thao & Đặng Thị Thu Hà (2021) cho rằng quá trình cải tạo nhà sàn Thái để phục vụ du lịch cộng đồng cần đồng thời đảm bảo yếu tố bản sắc và công năng hiện đại, trong đó việc bố trí lại không gian nội thất, tích hợp vệ sinh khép kín và sử dụng vật liệu bền vững là những tiêu chí quan trọng. Tuy nhiên, nhiều trường hợp cho thấy sự thiếu vắng các hướng dẫn chuyên môn, sự cải tạo tùy tiện của người dân, sự áp đặt từ phía đầu tư bên ngoài đã khiến không gian nhà sàn trở nên rập khuôn, mất tính bản địa và thiếu tính bền vững [13, 14].

Trên thế giới, việc cải tạo và tái sử dụng thích ứng kiến trúc truyền thống đã được tiếp cận như một hướng đi hiệu quả nhằm cân bằng giữa bảo tồn di sản và đáp ứng nhu cầu đương đại. Oliver (2003) nhấn mạnh rằng kiến trúc bản địa là kết quả của tiến trình lựa chọn tự nhiên – xã hội, vì vậy cần được tái cấu trúc với sự hiểu biết sâu sắc về văn hóa và môi trường [15]. Rapoport (1982) đề xuất rằng mọi cải tạo cần duy trì “ngữ pháp không gian” truyền thống, đồng thời tích hợp linh hoạt các yếu tố hiện đại như chiếu sáng, cấp thoát nước, và tiện nghi sinh hoạt [16]. Các nghiên cứu của Vellinga et al. (2006) ở châu Á, châu Phi và Correia et al. (2014) tại Bồ Đào Nha đã chứng minh rằng việc cải tạo nhà truyền thống theo hướng bền vững, nếu kết hợp đúng các yếu tố kỹ thuật – văn hóa – cộng đồng, sẽ tạo ra mô hình nhà ở hiệu quả về mặt môi trường, kinh tế và di sản [17, 18]. Kinh nghiệm ở Nhật Bản (Nakagawa, 2016) và Thái Lan (Panyakul & Senasu, 2020) cũng minh chứng rằng sự kết hợp giữa kỹ thuật cải tạo hiện đại và tri thức bản địa là yếu tố then chốt để giữ lại bản sắc văn hóa trong không gian sống truyền thống [19, 20].

Bên cạnh đó, các tài liệu quốc tế nền tảng đã định hình nguyên tắc bảo tồn và tái sử dụng kiến trúc truyền thống, bao gồm: Jokilehto (1999) với công trình “A History of Architectural Conservation”, Hiến chương ICOMOS về Di sản Kiến trúc Dân gian (1999), Nara Document on Authenticity (1994), và International Cultural Tourism Charter (1999) – tất cả đều nhấn mạnh tầm quan trọng của tính xác thực, bản sắc văn hóa và sự tham gia của cộng đồng trong bảo tồn kiến trúc truyền thống [21–24].

Tại Việt Nam và Đông Nam Á, một số nghiên cứu ứng dụng gần đây đã đề cập đến vấn đề bảo tồn và tái sử dụng nhà truyền thống theo hướng bền vững. Lê Hồng Kỳ & Nguyễn Thị Thanh Huyền (2021) phân tích cải tạo nhà cổ Hội An để phát triển du lịch bền vững với giải pháp tích hợp tiện nghi hiện đại và bảo tồn chi tiết kiến trúc bản địa. Trần Thị Huyền Trang & Nguyễn Đình Thi (2022) nghiên cứu mô hình cải tạo nhà truyền thống Khmer ở Trà Vinh nhằm thích ứng biến đổi khí hậu và cải thiện chất lượng sống. Ngoài ra, Hoàng Thị Thu Hằng (2023) đưa ra đề xuất bảo tồn kiến trúc nhà rường Huế thông qua phục dựng cấu trúc truyền thống và sử dụng vật liệu địa phương, tạo điều kiện phát triển du lịch di sản có trách nhiệm [25–27]. Các nghiên cứu của Tran et al. (2024), Vu et al. (2024) và Nguyen (2024) tại Hà Nội và TP.HCM cho thấy tiềm năng tái sử dụng linh hoạt không gian kiến trúc truyền thống và kiến trúc Pháp thuộc trong bối cảnh đô thị hóa nhanh, đặc biệt trong việc chuyển đổi công năng sang các không gian thương mại, du lịch, văn hóa, giáo dục [28, 22, 23]. Ở khu vực miền núi phía Bắc, nghiên cứu của Lan & Tran (2021) tại Sa Pa chỉ ra rằng việc cải tạo nhà dân tộc phục vụ du lịch cần đảm bảo cả yếu tố bản sắc lẫn công năng tiện nghi bền vững [21]. Tại khu vực Đông Nam Á, Amphansuk & Isaratharmmanoon (2019) nghiên cứu việc tái sử dụng các công trình lịch sử tại Bangkok để chuyển đổi thành không gian học tập sáng tạo. Các nghiên cứu tại Singapore (Cudicio & Gardella, 2024), Indonesia (Atmanti & Uekita, 2023; Kwanda, 2020) và Thái Lan cho thấy sự kết hợp hiệu quả giữa kỹ thuật bảo tồn hiện đại và tri thức bản địa trong quá trình cải tạo kiến trúc truyền thống, góp phần duy trì bản sắc đô thị, đồng thời thúc đẩy phát triển du lịch bền vững [24, 25, 26, 27].

Tổng quan cho thấy có nhiều công trình nghiên cứu đã phân tích giá trị văn hóa và cấu trúc nhà sàn truyền thống, chỉ ra những nguy cơ mai một do biến đổi hiện đại và một số kinh nghiệm trong việc cải tạo nhà truyền thống. Tuy nhiên, còn thiếu các nghiên cứu chuyên sâu và mang tính hệ thống về giải pháp cải tạo kiến trúc nhà ở truyền thống dân tộc Thái theo hướng bền vững, trong đó có sự tích hợp giữa bảo tồn bản sắc văn hóa, nâng cấp công năng sử dụng và ứng dụng nguyên lý thiết kế xanh. Đây chính là khoảng trống mà nghiên cứu này hướng đến lấp đầy.

3. Khung lý thuyết

Nghiên cứu cải tạo kiến trúc nhà ở truyền thống của người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam theo hướng bền vững được xây dựng dựa trên nền tảng lý thuyết liên ngành, kết hợp giữa các tiếp cận về kiến trúc bản địa, phát triển bền vững, bảo tồn và tái sử dụng thích ứng. Khung lý thuyết này giúp làm rõ mối quan hệ giữa không gian cư trú truyền thống và các yếu tố xã hội, văn hóa, kinh tế và môi trường, trong bối cảnh đô thị hóa, hiện đại hóa và phát triển du lịch cộng đồng.

3.1. Kiến trúc bản địa

Theo P. Oliver (2003) và M. Vellinga, P. Oliver & A. Bridge (2006), kiến trúc bản địa là sản phẩm phản ánh mối quan hệ chặt chẽ giữa con người với môi trường tự nhiên và văn hóa bản địa. Nó được hình thành từ kinh nghiệm sống và tri thức dân gian tích lũy qua nhiều thế hệ [15,21 ]. Nhà ở truyền thống của người Thái là ví dụ điển hình về loại hình kiến trúc bản địa được xây dựng phù hợp với địa hình miền núi, khí hậu nhiệt đới ẩm, và các đặc trưng văn hóa, xã hội.

3.2. Các khái niệm và nguyên tắc phát triển bền vững

Phát triển bền vững được định nghĩa trong Báo cáo Brundtland (WCED, 1987) là sự phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai [22]. Trong kiến trúc, điều này bao gồm sự hài hòa giữa các yếu tố môi trường (tiết kiệm năng lượng, sử dụng vật liệu địa phương), kinh tế (chi phí đầu tư, khả năng bảo trì), và văn hóa – xã hội (bảo tồn bản sắc, đáp ứng nhu cầu cộng đồng) (Sachs, 2015) [22]. Việc cải tạo nhà ở truyền thống của người Thái cần được đặt trong khung phát triển này để đảm bảo tính khả thi và phù hợp lâu dài.

3.3. Lý thuyết cải tạo kiến trúc truyền thống

Cải tạo kiến trúc truyền thống là một hướng tiếp cận quan trọng trong bảo tồn di sản văn hóa, đặc biệt trong bối cảnh hiện đại hóa và biến đổi nhu cầu sử dụng. Không giống với việc bảo tồn nguyên trạng, cải tạo cho phép giữ lại những yếu tố cốt lõi về cấu trúc, vật liệu và không gian truyền thống, đồng thời lồng ghép các yếu tố mới nhằm nâng cao khả năng sử dụng, tính bền vững và đáp ứng yêu cầu đương đại. Điều này đặc biệt quan trọng với các công trình nhà ở dân tộc – nơi không chỉ chứa đựng ký ức văn hóa mà còn là không gian sinh hoạt thực tế (Feilden, 2003; Jokilehto, 2007) [23, 24].

Trong bối cảnh cộng đồng người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam, lý thuyết cải tạo kiến trúc truyền thống không chỉ giúp bảo tồn không gian cư trú dân tộc mà còn tạo điều kiện cho việc cải thiện điều kiện sống, phát triển du lịch cộng đồng, và ứng phó với biến đổi khí hậu. Điều này đòi hỏi một cách tiếp cận tổng thể, trong đó cải tạo, không chỉ giới hạn trong kỹ thuật xây dựng mà là một phần của chiến lược phát triển bền vững dựa trên sự tôn trọng hệ giá trị bản địa.

3.4. Phát triển bền vững trong kiến trúc nhà ở truyền thống

Lý thuyết về phát triển bền vững trong kiến trúc nhấn mạnh sự hài hòa giữa yếu tố vật thể và phi vật thể. Theo Guy và Farmer (2001), kiến trúc bền vững không chỉ nhằm tối ưu hóa hiệu quả năng lượng mà còn cần được định hình theo các đặc thù văn hóa – xã hội của từng bối cảnh [25]. Trong cộng đồng người Thái, điều này bao gồm việc bảo tồn không gian sinh hoạt chung, kết cấu và vật liệu truyền thống, đồng thời cải thiện điều kiện chiếu sáng, thông gió, vệ sinh và sử dụng các công nghệ mới để đáp ứng nhu cầu hiện đại.

4. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu này được triển khai qua bốn giai đoạn chính, sử dụng tổng hợp phương pháp định tính, khảo sát thực địa và phỏng vấn cộng đồng, nhằm nhận diện các giá trị kiến trúc truyền thống và đề xuất nguyên tắc cải tạo phù hợp với phát triển bền vững:

– Nghiên cứu tài liệu: Thu thập, tổng hợp và phân tích tài liệu trong nước và quốc tế liên quan đến: Kiến trúc nhà ở truyền thống dân tộc Thái, cải tạo và tái sử dụng thích ứng nhà ở dân gian, lý thuyết phát triển bền vững và tái sử dụng thích ứng. Từ đó xác định khung lý thuyết mang tính liên ngành, kết hợp giữa các tiếp cận về kiến trúc bản địa, cải tạo tái sử dụng thích ứng và phát triển bền vững.

– Khảo sát thực địa: Địa bàn nghiên cứu được lựa chọn là 06 bản tại vùng Tây Bắc Việt Nam, trong đó có 04 bản của người Thái Trắng và 02 bản người Thái Đen. Việc thu thập dữ liệu hiện trạng bao gồm đo vẽ, chụp ảnh, ghi chép chi tiết về kiến trúc nhà sàn; ghi nhận cấu trúc không gian, chức năng sử dụng, vật liệu xây dựng và xu hướng cải tạo.

– Phỏng vấn cộng đồng: Thu thập các thông tin về nhận thức giá trị nhà ở truyền thống, mong muốn và nhu cầu cải tạo theo hướng bền vững.

– Phân tích và tổng hợp: Phân tích các dữ liệu thu thập được theo chủ đề, tổng hợp và đề xuất nguyên tắc cải tạo kiến trúc nhà ở truyền thống dân tộc Thái theo hướng bền vững.

5. Kết quả và bàn luận

5.1. Giá trị kiến trúc nhà ở truyền thống của người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam

Trên cơ sở phân tích các tài liệu viết về nhà ở dân gian dân tộc Thái ở Việt Nam [5, 6, 7, 8, 9, 10], tham khảo mô hình ngôi nhà cổ của người Thái tại bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, nhóm nghiên cứu nhận thấy: Kiến trúc nhà ở dân gian của dân tộc Thái rất độc đáo, phản ánh sự thích ứng với môi trường tự nhiên, văn hóa và tập quán sinh hoạt của họ. Loại hình nhà ở chủ yếu là nhà sàn, được xây dựng trên các cột gỗ cao hơn mặt đất khoảng 2m, giúp tránh ẩm ướt, côn trùng, thú dữ và tạo sự thông thoáng. Nhà có hình chữ nhật, chiều dài gấp đôi chiều rộng, cấu trúc phổ biến là 3 hoặc 5 gian (số lẻ theo quan niệm của người Thái mang lại may mắn). Mái nhà có độ dốc lớn để thoát nước nhanh, phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm vùng núi . Vật liệu chủ yếu được khai thác từ địa phương như gỗ, tre, nứa, lá, có tính tái tạo và thân thiện môi trường, đồng thời sử dụng kỹ thuật truyền thống trong lắp dựng. Không gian nội thất được tổ chức hợp lý theo mô hình chức năng – biểu tượng: gian thờ tổ tiên, bếp lửa, không gian tiếp khách và khu vực ngủ được bố trí phân tách rõ ràng. (hình 1). Các yếu tố trên không chỉ mang giá trị văn hóa – xã hội sâu sắc mà còn thể hiện tư duy sinh thái đặc trưng của người Thái trong việc xây dựng môi trường sống thích nghi, tiết kiệm tài nguyên, gần gũi với thiên nhiên. Đây chính là những giá trị cần được bảo tồn trong quá trình cải tạo nhà ở truyền thống theo hướng bền vững.

Hình 1: Hình vẽ ngôi nhà cổ truyền của người Thái dựa trên mô tả trong các tài liệu về nhà sàn cổ

Kết quả khảo sát kiến trúc nhà ở truyền thống của người Thái của nhóm nghiên cứu tại 06 bản thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam (bản Ngoang, xã Thẳm Dương, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai; bản Vàng Pheo, xã Mường So, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu; bản Mển, xã Thanh Nưa, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; bản Mớ, phường Thanh Trường, TP Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên; bản Văn, xã Văn Nghĩa, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình; bản Áng, xã Đông Sang, thị trấn Mộc Châu, tỉnh Sơn La) cho thấy nhà ở truyền thống dân tộc Thái vùng Tây Bắc hiện còn tồn tại vẫn giữ được nét chủ yếu về mặt kiến trúc của nhà cổ truyền, chỉ phần mái là có thay đổi, mái thường lợp ngói đất nung, tôn hoặc fibro xi măng thay cho lá vì mái lá chóng hỏng và gây hiện tượng dột khi có mưa lớn (hình 2, 3).

Hình 2: Nhà ở truyền thống dân tộc Thái Trắng tại bản Vàng Pheo, tỉnh Lai Châu (mái lợp fibro xi măng)
Hình 3: Nhà ở truyền thống dân tộc Thái Đen tại bản Mển, tỉnh Điện Biên (mái lợp ngói đất nung

5.2. Thực trạng nhà ở truyền thống dân tộc Thái vùng Tây Bắc

Hiện nay, chính sách cải thiện điều kiện nhà ở của các dân tộc thiểu số của chính phủ Việt Nam cùng với chính sách phát triển nông thôn mới đang làm xoá bỏ khoảng cách về kinh tế, văn hóa và xã hội giữa miền núi và miền xuôi đã mang lại cho kiến trúc nhà ở các dân tộc thiểu số diện mạo mới [26, 27]. Bên cạnh đó, hệ quả của quá trình di cư phát triển kinh tế giữa từ miền xuôi lên miền núi, di cư giữa các dân tộc dẫn đến sự pha trộn các nhóm sắc tộc, tạo ra sự biến đổi đa dạng văn hoá tại vùng Tây Bắc Việt Nam. Hệ quả của những tác động này dẫn đến những biến đổi lớn trong môi trường kinh tế, văn hoá, xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây [28, 29]. Từ đó dẫn tới sự biến đổi hình thái nhà ở các dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc Thái ở vùng Tây Bắc Việt Nam.

Theo thống kê của Tổng cục Thống kê phối hợp với Ủy ban Dân tộc cho các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, năm 2019 (là số liệu thống kê gần đây nhất) có 26,2% hộ gia đình đang ở trong ngôi nhà truyền thống của dân tộc mình, giảm 3,1 điểm phần trăm so với năm 2015 (29,3%) [30]. Theo thống kê của đề tài Nghiên cứu xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá, xếp hạng kiến trúc nhà ở truyền thống các dân tộc thiểu số vùng miền núi phía Bắc tại 24 bản dân tộc thiểu số tại miền núi phía Bắc Việt Nam, tới năm 2023, số lượng nhà ở truyền thống ở đây chỉ chiếm 20,2% tổng số lượng nhà ở [31]. Theo kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu trong năm 2024 và đầu năm 2025 tại 06 bản người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam, số lượng nhà ở truyền thống ở đây chỉ chiếm 15,2% tổng số lượng nhà ở (bảng 1 và hình 4). Mặc dù đây là các kết quả thống kê khác nhau nhưng cũng có thể cho chúng ta thấy số lượng nhà truyền thống của các dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc Thái có xu hướng ngày càng giảm.

TTTên bảnĐịa điểm (tỉnh)Số lượng nhà truyền thốngTổng số nhà trong bảnTỷ lệ nhà truyền thống trên tổng số nhà (%)
1Bản NgoangLào Cai259626
2Bản MểnĐiện Biên3411031
3Bản Vàng PheoLai Châu248229
4Bản VănHòa Bình129712
5Bản ÁngSơn La153354
6Bản MớĐiện Biên117315
Bảng 1. Số lượng nhà truyền thống và tổng số nhà ở tại 06 bản người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam
Hình 4. Số lượng nhà truyền thống và tổng số nhà ở tại 06 bản người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam

Sự giảm sút số lượng nhà ở truyền thống của các dân tộc thiểu số, trong đó có người Thái, tại vùng Tây Bắc Việt Nam là một hiện tượng đáng báo động, phản ánh sự mai một các giá trị văn hóa gắn liền với bản sắc dân tộc . Dưới đây là các nguyên nhân chính, được tổng hợp từ nghiên cứu thực tiễn của nhóm nghiên cứu và tham khảo các tài liệu lý luận trong lĩnh vực bảo tồn kiến trúc nhà ở truyền thống dân tộc thiểu số: 

– Tác động của đô thị hóa và hiện đại hóa: Sự mở rộng hạ tầng kỹ thuật, giao thông và mạng lưới tiện ích đã làm thay đổi quan niệm về lối sống, về nhà ở. Các kiểu nhà hiện đại xây dựng bằng vật liệu mới như bê tông, gạch, tôn được coi là tiện nghi và thể hiện sự phát triển, vì vậy nhiều ngôi nhà truyền thống đã bị phá bỏ để xây dựng nhà kiểu hiện đại [32]. Việc quy hoạch di dời các bản làng, tạo ra các khu dân cư mới, để nhường đất cho việc xây dựng các công trình công nghiệp và giao thông cũng là một yếu tố làm mất đi các ngôi nhà truyền thống.

– Thay đổi lối sống và nhu cầu: Lối sống hiện đại với nhu cầu về không gian riêng tư, sự thay đổi cấu trúc gia đình (gia đình hạt nhân thay thế cho gia đình đa thế hệ), nhu cầu tiện nghi hiện đại (nhà vệ sinh khép kín, trang thiết bị hiện đại) khiến nhà ở truyền thống trở nên kém phù hợp [33]. Vì vậy, tình trạng cơi nới nhà sàn bừa bãi, thậm chí phá bỏ nhà sàn truyền thống để lấy đất xây dựng nhà ở mới theo kiểu hiện đại ngày càng phổ biến [34].

– Áp lực chi phí sửa chữa và tu bổ: Nguồn gỗ và các vật liệu tự nhiên truyền thống ngày càng khan hiếm do khai thác quá mức từ các năm trước và chính sách bảo vệ rừng hiện nay của chính phủ. Do vậy, chi phí để tìm kiếm và chế tác các vật liệu này để sửa chữa và tu bổ ngôi nhà sàn truyền thống cũng tăng cao, gây khó khăn cho việc bảo tồn những ngôi nhà này [35].

– Tác động từ thiên tai và biến đổi khí hậu: Nhà ở truyền thống chủ yếu là nhà sàn bằng gỗ, tre, nứa có cấu trúc phù hợp với điều kiện tự nhiên truyền thống, nhưng lại rất dễ tổn thương trước các hiện tượng thời tiết cực đoan gia tăng do biến đổi khí hậu. Kết quả, nhiều ngôi nhà truyền thống bị hư hỏng nặng, khó duy tu, buộc người dân phải xây dựng nhà ở mới bằng bê tông, gạch, tôn,…

– Tác động của du lịch: Du lịch đang trở thành một ngành kinh tế quan trọng ở vùng Tây Bắc Việt Nam, mang lại nhiều cơ hội phát triển cho các cộng đồng dân tộc thiểu số, trong đó có người Thái. Mặc dù du lịch có thể tạo ra lợi ích kinh tế và nâng cao nhận thức về văn hóa, nhưng sự phát triển du lịch không bền vững dẫn đến việc cải tạo, sửa chữa nhà ở truyền thống theo hướng thương mại hóa, làm mất đi tính nguyên bản và giá trị văn hóa. Trong một số trường hợp, việc xây dựng các cơ sở lưu trú du lịch hiện đại có thể dẫn đến việc phá bỏ nhà ở truyền thống để lấy đất, làm giảm số lượng nhà truyền thống [36]. Các nguyên nhân chính dẫn tới sự giảm sút số lượng nhà ở truyền thống được tóm tắt ở bảng 2.

TTNhóm nguyên nhânMô tả tác động
1Đô thị hóa và hiện đại hóaMở rộng hạ tầng, hình thành khu dân cư mới, thay đổi mô hình nhà ở truyền thống
2Thay đổi lối sống và nhu cầuLối sống hiện đại,nhu cầu tiện nghi hiện đại dẫn đến thay đổi không và hình thức nhà ở
3Chi phí sửa chữa và tu bổChi phí sửa chữa và tu bổ cao, vật liệu truyền thống khan hiếm, gây khó khăn cho việc duy trì nhà ở truyền thống
4Thiên tai và biến đổi khí hậuNhà ở truyền thống bị hư hại do bão, lũ, sạt lở đất, khí hậu cực đoan
5Tác động của du lịchPhát triển du lịch không bền vững dẫn đến việc cải tạo nhà ở truyền thống theo hướng thương mại hóa, thậm chí phá bỏ nhà ở truyền thống
Bảng 2. Các nguyên nhân chính dẫn tới sự giảm sút số lượng nhà ở truyền thống

5.3. Nhận thức cộng đồng và nhu cầu cải tạo nhà ở truyền thống dân tộc Thái

Phỏng vấn cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong việc làm rõ mối quan hệ giữa không gian cư trú truyền thống và nhu cầu sống đương đại, từ đó góp phần định hướng các giải pháp cải tạo phù hợp với nguyện vọng của chính cư dân bản địa – một nguyên tắc cốt lõi được nhấn mạnh trong nhiều nghiên cứu bảo tồn di sản kiến trúc có sự tham gia của cộng đồng (Feilden, 2003; UNESCO, 2013) [23, 37,  38]. Thông tin thu thập từ các cuộc phỏng vấn cộng đồng cung cấp cái nhìn thực tế và đa chiều về giá trị mà người dân gán cho nhà sàn truyền thống, cũng như những kỳ vọng của họ trong quá trình cải tạo kiến trúc theo hướng hiện đại nhưng vẫn đảm bảo tính bền vững (Plevoets & Van Cleempoel, 2011; Nguyễn, 2015) [39,40].

Để làm rõ hơn về quan điểm của cộng đồng, chúng tôi đã thực hiện một cuộc phỏng vấn sâu rộng với số lượng 253 người dân, trong đó chủ yếu là đại diện các gia đình đang sống trong các ngôi nhà ở truyền thống bằng các bảng hỏi; ngoài ra còn có các phỏng vấn bán cấu trúc với 06 trưởng bản và một số người cao tuổi. Cuộc điều tra diễn ra từ năm 2024 đến đầu năm 2025 tại 06 bản người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam (bản Ngoang, xã Thẳm Dương, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai; bản Vàng Pheo, xã Mường So, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu; bản Mển, xã Thanh Nưa, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; bản Mớ, phường Thanh Trường, TP Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên; bản Văn, xã Văn Nghĩa, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình; bản Áng, xã Đông Sang, thị trấn Mộc Châu, tỉnh Sơn La). Mục đích của cuộc phỏng vấn này là thu thập thông tin chi tiết về nhận thức của họ đối với giá trị của nhà ở truyền thống, cũng như những mong muốn và nhu cầu cải tạo nhà ở hiện có theo hướng bền vững. Kết quả của các cuộc phỏng vấn này được trình bày chi tiết trong bảng 3 dưới đây.

Vấn đề được khảo sátTỷ lệ đồng ý
1. Giá trị kiến trúc nhà truyền thống 
1.1Giá trị văn hóa86,95%
1.2Giá trị lịch sử77,07%
1.3Giá trị thẩm mỹ70,35%
1.4Kỹ thuật xây dựng61,26%
2. Bảo tồn nhà truyền thống 
2.1Rất quan trọng73,91%
2.2Quan trọng21,34%
2.3Ít quan trọng4,74%
2.4Không quan trọng0%
3. Mục tiêu ưu tiên cải tạo nhà ở truyền thống 
3.1Bảo tồn giá trị văn hóa và kiến trúc nguyên bản65,21%
3.2Phù hợp với điều kiện sống hiện đại81,81%
3.3Tăng tính bền vững và chống chịu biến đổi khí hậu62,05%
3.4Kết hợp kinh doanh/dịch vụ du lịch47,94%
4. Các yếu tố cần cải thiện trong kiến trúc nhà sàn truyền thống 
4.1Tăng không gian sinh hoạt65,61%
4.2Cải thiện khả năng chống nóng/lạnh79,44%
4.3Tăng độ bền vật liệu59,28%
4.4Cải thiện hệ thống nước và vệ sinh82,21%
5. Mong muốn kết hợp yếu tố hiện đại và bền vững 
5.1Hệ thống năng lượng tái tạo56,91%
5.2Công nghệ thông minh41,50%
5.3Tiện ích sinh hoạt hiện đại81,81%
6. Chi phí cải tạo 
6.1Phù hợp30,14%
6.2Hơi cao nhưng chấp nhận được47,95%
6.3Quá cao, khó thực hiện21,92%
7. Mong muốn hỗ trợ 
7.1Hỗ trợ kinh phí xây dựng68,49%
7.2Tư vấn kỹ thuật và thiết kế57,53%
7.3Hỗ trợ vật liệu xây dựng72,60%
7.4Đào tạo kỹ thuật52,05%
Bảng 3. Kết quả phỏng vấn cộng đồng về bảo tồn và cải tạo nhà ở truyền thống

Dựa vào kết quả phỏng vấn cộng đồng, có thể đưa ra một số nhận xét chi tiết sau:

– Đánh giá cao giá trị truyền thống: Cộng đồng thể hiện sự nhận thức sâu sắc về các giá trị văn hóa và lịch sử của nhà sàn truyền thống, với tỷ lệ người tham gia phỏng vấn đánh giá cao các giá trị này lần lượt là 86,95% và 77,07%. Điều này cho thấy rằng nhà ở truyền thống không chỉ được coi là một không gian cư trú đơn thuần mà còn là một phần không thể thiếu của bản sắc và di sản văn hóa của cộng đồng. Bên cạnh đó, các giá trị thẩm mỹ và kỹ thuật xây dựng của nhà sàn truyền thống cũng nhận được sự đánh giá cao từ cộng đồng (lần lượt là 70,35% và 61,26%). Điều này chứng tỏ rằng người dân không chỉ coi trọng các khía cạnh văn hóa và lịch sử mà còn đánh giá cao vẻ đẹp và sự khéo léo trong việc xây dựng loại hình nhà ở này.

– Mong muốn bảo tồn mạnh mẽ: Đa số người dân tham gia phỏng vấn (73.91%) bày tỏ quan điểm rằng việc bảo tồn nhà sàn truyền thống là “rất quan trọng”. Điều này cho thấy sự quan tâm sâu sắc và ý thức trách nhiệm cao của cộng đồng đối với việc duy trì và phát huy di sản văn hóa của mình.

– Các ưu tiên cải thiện: Khi được hỏi về các yếu tố cần cải thiện trong kiến trúc nhà sàn truyền thống, người dân tập trung vào các vấn đề liên quan đến sự thoải mái và tiện nghi trong sinh hoạt hàng ngày. Các yếu tố được ưu tiên hàng đầu bao gồm hệ thống nước và vệ sinh (82.21%), khả năng chống nóng/lạnh (79.44%) và tăng không gian sinh hoạt (65.61%). Ngoài ra, việc tăng độ bền của vật liệu xây dựng (59.28%) cũng được coi là yếu tố quan trọng cần được cải thiện. Điều này cho thấy rằng người dân không chỉ quan tâm đến việc cải thiện chất lượng sống mà còn mong muốn phát triển kinh tế và du lịch dựa trên các giá trị văn hóa truyền thống.

– Kết hợp yếu tố hiện đại và bền vững: Bên cạnh việc bảo tồn các giá trị truyền thống, cộng đồng cũng mong muốn kết hợp các yếu tố hiện đại và bền vững vào nhà ở của mình. Các yếu tố hiện đại được ưu tiên bao gồm tiện ích sinh hoạt (83,56%), hệ thống năng lượng tái tạo (58,90%) và công nghệ thông minh (41,10%). Ngoài ra, mục tiêu ưu tiên cải tạo nhà ở truyền thống nhằm”phù hợp với điều kiện sống hiện đại” (83,56%) và “tăng tính bền vững và chống chịu biến đổi khí hậu” (63,01%). Điều này cho thấy rằng người dân ngày càng quan tâm đến các vấn đề môi trường và mong muốn có được những ngôi nhà ở không chỉ tiện nghi mà còn thân thiện với môi trường và có khả năng thích ứng với các thách thức của biến đổi khí hậu.

– Trở ngại về chi phí: Chi phí cải tạo được xem là một trở ngại đối với một bộ phận người dân. Gần một nửa số người được hỏi (47.95%) cho rằng chi phí cải tạo là “hơi cao nhưng chấp nhận được”. Điều này cho thấy rằng việc cải tạo nhà ở truyền thống có thể tạo ra gánh nặng tài chính cho nhiều người dân. Hơn một phần năm số người được hỏi (21.92%) cho rằng chi phí “quá cao, khó thực hiện”. Đây là một rào cản lớn đối với việc cải tạo nhà ở truyền thống, đặc biệt là đối với những người có thu nhập thấp.

– Mong muốn hỗ trợ: Người dân mong muốn nhận được sự hỗ trợ từ các cấp chính quyền và các tổ chức liên quan về nhiều mặt, bao gồm hỗ trợ kinh phí xây dựng (68,49%), tư vấn kỹ thuật và thiết kế (57,53%), hỗ trợ vật liệu xây dựng (72,60%) và đào tạo kỹ thuật (52,05%). Điều này cho thấy rằng các chương trình hỗ trợ toàn diện và có sự tham gia của cộng đồng là rất quan trọng để đảm bảo sự thành công của các nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững.

Kết quả phỏng vấn cộng đồng cho thấy người dân nhận thức rõ giá trị văn hóa và lịch sử của nhà ở truyền thống. Họ mong muốn bảo tồn và cải tạo nhà ở để phù hợp với cuộc sống hiện đại, đồng thời tăng tính bền vững và khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, chi phí cải tạo là một trở ngại lớn, đặc biệt đối với người có thu nhập thấp. Để khuyến khích việc bảo tồn và phát triển bền vững nhà ở truyền thống, cần có các giải pháp hỗ trợ tài chính từ các cấp chính quyền và tổ chức liên quan. Đồng thời, các chương trình hỗ trợ kỹ thuật, thiết kế và đào tạo cũng rất quan trọng để đảm bảo sự thành công của các nỗ lực này.

5.4. Định hướng cải tạo nhà ở truyền thống dân tộc Thái theo hướng bền vững

Dựa trên phân tích các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự suy giảm số lượng nhà ở truyền thống của người Thái tại vùng Tây Bắc Việt Nam, đồng thời kết hợp với kết quả khảo sát từ cộng đồng địa phương, nghiên cứu đã xây dựng một số định hướng cải tạo kiến trúc nhà ở truyền thống theo tiếp cận bền vững:

  • Bảo tồn cấu trúc và hình thái kiến trúc truyền thống
    • Giữ lại hình thức nhà sàn, bốn mái dốc đặc trưng.
    • Duy trì tổ chức không gian truyền thống như gian thờ, bếp, sàn sinh hoạt, các không gian ngủ.
    • Hạn chế can thiệp vào khung kết cấu chính như hệ cột gỗ, vì kèo.
    • Bảo tồn và phục hồi các chi tiết chạm khắc, hoa văn trang trí truyền thống, thể hiện bản sắc văn hóa của người Thái.
  • Nâng cao tiện nghi và công năng đáp ứng nhu cầu hiện đại
    • Tổ chức lại không gian bên trong nhà để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hiện đại, đảm bảo sự tiện nghi và thoải mái cho người sử dụng.
    • Cải thiện điều kiện thông gió và chiếu sáng tự nhiên, tạo không gian sống thoáng mát, trong lành.
    • Cải tạo hoặc xây dựng mới hệ thống vệ sinh, bếp, khu vực sinh hoạt chung phù hợp với điều kiện sống hiện tại.
  • Cải tiến vật liệu và kỹ thuật thi công
    • Sử dụng vật liệu truyền thống kết hợp vật liệu bền vững mới như gỗ công nghiệp, vật liệu chống cháy,…
    • Sử dụng phương pháp thủ công truyền thống kết hợp với các thiết bị thi công nhỏ.
    • Ưu tiên sử dụng vật liệu có sẵn hoặc chế tạo tại địa phương như ngói không nung để giảm chi phí và khí thải carbon.
  • Ứng phó với thiên tai biến đổi khí hậu
    • Gia cố kết cấu nhà để tăng khả năng chống chịu trước các tác động của thiên tai như mưa lớn, gió bão.
    • Lựa chọn các loại vật liệu có khả năng chống chịu tốt với thời tiết, ít bị ảnh hưởng bởi mối mọt, ẩm mốc.
    • Thiết kế nhà ở có khả năng thích ứng với các thay đổi của khí hậu như như có hệ thống thoát nước để tránh ngập úng và xói lở nền móng, tăng cường trồng cây xung quanh nhà để tạo bóng mát, giảm xói mòn.
  • Phát triển kinh tế và xã hội
    • Cải tạo nhà ở để có thể kết hợp với các hoạt động kinh doanh du lịch cộng đồng, tạo nguồn thu nhập ổn định cho người dân.
    • Tạo không gian sinh hoạt cộng đồng trong nhà ở hoặc khu vực xung quanh, tăng cường sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình và cộng đồng.
    • Bảo tồn và phát huy nghề truyền thống để tạo ra các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, góp phần bảo tồn các nghề truyền thống của người Thái, đồng thời tạo ra thu nhập.
  • Đảm bảo tính bền vững về môi trường
    • Ưu tiên sử dụng vật liệu đia phương tái tạo, tái sử dụng vật liệu cũ, hạn chế vật liệu công nghiệp gây ô nhiễm.
    • Thiết kế để tận dụng tối đa ánh sáng và gió tự nhiên, giúp tiết kiệm năng lượng.
    • Đa dạng hóa cây xanh trồng trong vườn nhà nhằm duy trì sự cân bằng của hệ sinh thái.
    • Thiết kế hệ thống thu gom nước mưa để sinh hoạt và tưới cây, hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt đơn giản tại chỗ.
    • Lắp đặt hệ thống năng lượng mặt trời quy mô nhỏ để cung cấp điện cơ bản cho gia đình.

5.5. Nghiên cứu trường hợp tại bản Vàng Pheo

Bản Vàng Pheo, thuộc xã Mường So, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu, là một bản cổ của người Thái Trắng mang tính điển hình cho các bản người Thái vùng Tây Bắc Việt Nam. Bản nằm ở vị trí địa lý đặc biệt, nơi giao thoa của hai dòng suối Nậm So và Nậm Tùn, và được bao quanh bởi địa hình núi cao. Nhà ở trong bản chủ yếu là nhà sàn truyền thống, trong đó có 24 ngôi nhà sàn giữ được cấu trúc nguyên bản, chiếm 29% tổng số nhà ở toàn bản (Hình 5). Văn hóa truyền thống tại bản được bảo tồn tương đối nguyên vẹn. Các hoạt động du lịch và dịch vụ tại bản tương đối phát triển, thu hút một lượng lớn khách du lịch.

Hình 5. Bản đồ tổng thể làng Vang Pheo với vị trí các ngôi nhà truyền thống

Trên cơ sở các định hướng cải tạo đã được đề xuất và kết quả phỏng vấn cộng đồng, nghiên cứu tiến hành xây dựng phương án cải tạo cho ba ngôi nhà ở truyền thống tại bản Vàng Pheo, bao gồm: nhà ông Mào Văn Hơn (số 15 trên sơ đồ tổng thể bản Vàng Pheo), nhà bà Nguyễn Thị Hương (số 7), và nhà ông Vương Văn Nón (số 12). Cả ba công trình đều là nhà sàn truyền thống được xây dựng cách đây trên 50 năm, vẫn giữ được hình thức kiến trúc cơ bản, ngoại trừ việc đã thay mái lá bằng ngói đất nung hoặc tấm lợp fibro xi măng. Các nhà này đều được xây dựng bám theo mặt đường, tuy nhiên chỉ có nhà ông Vương Văn Nón ngoài nhà chính là nhà truyền thống còn có 02 nhà mới cho các con, nhà ông Mào Văn Hơn có sẵn một nhà phụ sát mặt đường, gia đình bà Nguyễn Thị Hương chỉ có một ngôi nhà ở. Các chủ hộ của 03 ngôi nhà này đều bày tỏ mong muốn cải tạo nhà ở theo hướng bền vững, tuy nhiên điều kiện kinh tế còn hạn chế — đặc biệt hai hộ ông Mào Văn Hơn và bà Nguyễn Thị Hương thuộc diện hộ nghèo — nên kỳ vọng được hỗ trợ về tài chính, vật liệu và tư vấn kỹ thuật trong quá trình cải tạo.

Các phương án cải tạo đều dựa trên các định hướng cải tạo kiến trúc nhà ở truyền thống theo tiếp cận bền vững đã đề xuất ở mục 5.4. Tuy nhiên nhà ông Vương Văn Nón có diện tích sử dụng nhà chính làm homestay là lớn nhất do các con đã có nhà riêng; nhà ông Mào Văn Hơn được cải tạo một phần thành homestay, ngôi nhà phụ thành cửa hàng bán đồ lưu niệm là sản vật địa phương; nhà bà Nguyễn Thị Hương được cải tạo để sử dụng một phần làm home stay.

Hình 6. Đề xuất cải tạo nhà ông Mào Văn Hơn
Hình 7. Đề xuất cải tạo nhà bà Nguyen Thi Huong
Hình 8. Đề xuất cải tạo nhà ông Vuong Van Non

5.6. Bàn luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy nhà ở truyền thống của người Thái không chỉ là không gian cư trú đơn thuần, mà còn là một thực thể văn hóa mang giá trị lịch sử, bản sắc tộc người và mối quan hệ mật thiết với môi trường tự nhiên. Tuy nhiên, trước áp lực của đời sống hiện đại và điều kiện kinh tế – xã hội ngày càng thay đổi, mô hình nhà sàn truyền thống đang đứng trước nguy cơ mai một, nếu không có những can thiệp cải tạo phù hợp.

Việc khảo sát và phân tích nhu cầu của cộng đồng bản địa cho thấy người dân vẫn có ý thức gìn giữ nhà truyền thống, nhưng đồng thời mong muốn được cải thiện các điều kiện sinh hoạt như hệ thống nước sạch, chống nóng/lạnh, và tiện nghi vệ sinh. Điều này khẳng định tính cấp thiết của việc cải tạo thích ứng — nghĩa là giữ gìn những yếu tố cốt lõi của kiến trúc truyền thống trong khi tích hợp các giải pháp công nghệ, vật liệu và không gian phù hợp với nhu cầu đương đại.

So sánh với các kinh nghiệm quốc tế (Plevoets & Van Cleempoel, 2011; Bullen & Love, 2011), mô hình cải tạo bền vững thành công thường có ba yếu tố then chốt: (1) sự tham gia thực chất của cộng đồng, (2) ứng dụng linh hoạt công nghệ và vật liệu mới, và (3) chính sách hỗ trợ từ nhà nước hoặc tổ chức phát triển [41, 42]. Trong bối cảnh Việt Nam, đặc biệt với các nhóm dân tộc thiểu số như người Thái, ba yếu tố này vẫn chưa được kết nối một cách hệ thống. Các hoạt động phục dựng nhà sàn phục vụ du lịch tuy tạo ra giá trị kinh tế ngắn hạn nhưng nhiều khi dẫn đến thương mại hóa, làm suy giảm giá trị văn hóa nếu không có sự tham gia chủ động của người dân địa phương (Nguyễn & Nguyễn, 2020) [43].

Phương án cải tạo ba ngôi nhà cụ thể tại bản Vàng Pheo được xây dựng trên nền tảng khảo sát thực địa và mong muốn của các hộ gia đình, cho thấy tính khả thi của mô hình cải tạo nhà ở truyền thống theo hướng bền vững với chi phí thấp, đồng thời đảm bảo duy trì các giá trị văn hóa và sinh thái. Tuy nhiên, để mô hình này có thể mở rộng hiệu quả và lâu dài, cần xây dựng một chiến lược đa tầng, gồm:

  • Chiến lược kỹ thuật – thiết kế: Xây dựng bộ tiêu chí thiết kế cải tạo có thể tùy biến theo điều kiện địa phương nhưng vẫn tuân thủ khung bản sắc kiến trúc truyền thống.
  • Chiến lược tài chính: Tìm kiếm cơ chế tài trợ vi mô, tín dụng xanh, hoặc chương trình hỗ trợ xây dựng nông thôn mới có yếu tố bảo tồn để tạo điều kiện thực hiện cải tạo trên diện rộng.
  • Chiến lược đào tạo – truyền thông: Tổ chức tập huấn cho thợ địa phương về kỹ thuật cải tạo bền vững và nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị của không gian truyền thống.
  • Chiến lược thể chế hóa: Đề xuất chính sách hỗ trợ cải tạo nhà truyền thống gắn với quy hoạch du lịch cộng đồng và bảo tồn di sản tại địa phương.

Khả năng mở rộng mô hình không chỉ tập trung vào bản Vàng Pheo, mà có thể áp dụng cho các cộng đồng người Thái vùng Tây Bắc với điều chỉnh phù hợp về ngữ cảnh đặc trưng. Để làm được điều đó, cần nghiên cứu xây dựng một hệ khung đánh giá mô hình cải tạo, bao gồm các tiêu chí về hiệu quả năng lượng, bảo tồn bản sắc, mức độ hài lòng của người dân và khả năng nhân rộng.

Cuối cùng, nghiên cứu này cũng cho thấy cải tạo nhà ở truyền thống không nên chỉ tiếp cận theo hướng bảo tồn tĩnh tại, mà cần vận dụng tư duy “tái sinh di sản” (regenerative heritage) – một hướng đi mới được nhiều quốc gia áp dụng, nhằm tạo ra không gian sống thích ứng với hiện tại nhưng vẫn gắn bó chặt chẽ với cội nguồn văn hóa [44].

6. Kết luận và Kiến nghị

6.1. Kết luận

Nghiên cứu đã làm rõ những giá trị đặc trưng về văn hóa, kỹ thuật và sinh thái của kiến trúc nhà ở truyền thống dân tộc Thái tại vùng Tây Bắc Việt Nam, đồng thời chỉ ra các thách thức đang đặt ra đối với việc bảo tồn loại hình kiến trúc này trong bối cảnh hiện đại. Thông qua khảo sát thực địa và phỏng vấn cộng đồng, nghiên cứu cho thấy người dân vẫn có nhu cầu giữ gìn nhà truyền thống, song lại gặp nhiều khó khăn về điều kiện kinh tế, kỹ thuật và thông tin khi tiến hành cải tạo.

Việc đề xuất các nguyên tắc cải tạo bền vững và xây dựng phương án cụ thể cho ba ngôi nhà truyền thống tại bản Vàng Pheo là minh chứng cho khả năng tiếp cận cải tạo thích ứng, tích hợp giữa bảo tồn giá trị truyền thống và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hiện đại. Mô hình này có thể trở thành cơ sở thực tiễn quan trọng để nhân rộng ở các cộng đồng dân tộc thiểu số khác trong khu vực.

6.2. Kiến nghị

– Về chính sách: Cần có các chính sách hỗ trợ cụ thể từ cấp địa phương đến trung ương, bao gồm hỗ trợ tài chính, vật liệu và kỹ thuật đối với các hộ dân có nhu cầu cải tạo nhà truyền thống theo hướng bền vững.

– Về chuyên môn: Khuyến khích sự tham gia của các chuyên gia kiến trúc và bảo tồn trong việc tư vấn thiết kế, nhằm bảo đảm các giải pháp cải tạo hài hòa giữa truyền thống và hiện đại.

– Về cộng đồng: Tăng cường vai trò và tiếng nói của người dân trong quá trình bảo tồn và cải tạo, bảo đảm sự đồng thuận và sở hữu văn hóa từ chính cộng đồng bản địa.

– Về hướng nghiên cứu tiếp theo: Hướng nghiên cứu tiếp theo có thể tập trung vào xây dựng mô hình thử nghiệm sống (living lab) cho cải tạo nhà ở truyền thống, nơi cộng đồng cư dân cùng tham gia thiết kế, thử nghiệm và đánh giá hiệu quả giải pháp cải tạo theo thời gian thực, tạo nền tảng dữ liệu cho các chính sách phát triển nhà ở vùng dân tộc thiểu số trong tương lai.


Lời cảm ơn

Nghiên cứu này được thực hiện với sự tài trợ của Trường Đại học Xây dựng Hà Nội, trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu bảo tồn bản sắc văn hóa nhà ở truyền thống dân tộc Thái vùng Tây Bắc”. Các tác giả xin trân trọng cảm ơn sự hỗ trợ quý báu này đã góp phần quan trọng vào quá trình triển khai và hoàn thiện nghiên cứu.

Trần Quốc Bảo, Lê Tiến Thuận, Đặng Việt Long – Trường Đại học Xây dựng Hà Nội

Tài liệu tham khảo:

  1. Le, K. (2019). Exploring Vietnam’s Northwest Region. Hong Duc Publishing House, Hanoi.
  2. Nguyen, V. H., & Luu, H. (2001). Local Groups of the Thai People in Vietnam. Ethnic Culture Publishing House, Hanoi.
  3. Tran, T. T. (2014). Traditional Architecture of the Thai People in Northwest Vietnam. Construction Publishing House, Hanoi.
  4. Nguyen, T. H. M. (2018). Community Tourism Associated with the Preservation of Traditional Thai Culture in Northwest Vietnam. Journal of Folk Culture, (6), 45–52.
  5. Nguyen, K. T. (1978). Housing of Ethnic Groups in the Northern Midland of Vietnam. Social Sciences Publishing House, Hanoi.
  6. Vuong, T. (2018). Ancient Stilt Houses of the Thai People in Vietnam. Writers’ Association Publishing House, Hanoi.
  7. Nguyen, V. T. (2003). Vietnamese Vernacular Architecture. Construction Publishing House, Hanoi.
  8. Institute of Ethnology. (2005). Ethnic Groups in Vietnam (Vol. 1). Social Sciences Publishing House, Hanoi.
  9. Lo, V. H., & Dinh, T. H. (2019). Cultural Identity of the Thai People through Traditional Stilt House Architecture in the Northwest Region. Vietnam National University Publishing House, Hanoi.
  10. Lo, V. H., & Nguyen, M. T. (2020). Cultural Space in the Housing Architecture of the Thai People in the Northwest Region. Vietnam Architecture Magazine, (6), 34–40.
  11. Tran, H. M. (2018). Sustainable Architecture in Ethnic Minority Areas of Vietnam: The Case of Thai Stilt Houses. Journal of Development Research, (10), 25–31.
  12. Nguyen, H. T. (2015). Preserving Traditional Architecture Associated with Community Tourism Development in the Northwest Ethnic Minority Region. Journal of Folk Culture, (6), 38–44.
  13. Pham, H. C. (2015). Preserving and Inheriting the Architecture of Thai Stilt Houses. Journal of Science and Technology, (11), 15–20.
  14. Nguyen, H. T., & Dang, T. T. H. (2021). Renovation of Traditional Thai Houses for Community Tourism Development in Son La. Architecture Magazine, (316), 50–56.
  15. Oliver, P. (2003). Dwellings: The Vernacular House Worldwide. Phaidon Press, London.
  16. Rapoport, A. (1982). The Meaning of the Built Environment: A Nonverbal Communication Approach. Sage Publications, Beverly Hills, CA.
  17. Vellinga, M., Oliver, P., & Bridge, A. (2006). Atlas of Vernacular Architecture of the World. Routledge, London.
  18. Correia, M., Carlos, G., & Rocha, S. (2014). Vernacular Heritage and Earthen Architecture: Contributions for Sustainable Development. CRC Press, London.
  19. Nakagawa, Y. (2016). Traditional Japanese Architecture: Interventions for Contemporary Use. University Press, Kyoto.
  20. Panyakul, P., & Senasu, K. (2020). Adaptive Reuse of Vernacular Houses in Northern Thailand: Cultural Resilience and Sustainable Tourism. Journal of Cultural Heritage Management and Sustainable Development, 10(3), 245–260.
  21. Vellinga, M., Oliver, P., & Bridge, A. (2006). Atlas of vernacular architecture of the world. Routledge.
  22. Sachs, J. D. (2015). The Age of Sustainable Development. Columbia University Press, New York.
  23. Feilden, B. M. (2003). Conservation of Historic Buildings (3rd ed.). Routledge, London.
  24. Jokilehto, J. (2007). International Charters on Urban Conservation: Some Thoughts on the Principles Expressed in Current International Doctrine. City & Time, 3(3), 1–16.
  25. Guy, S., & Farmer, G. (2001). Reinterpreting Sustainable Architecture: The Place of Technology. Journal of Architectural Education, 54(3), 140–148.
  26. Government of the Socialist Republic of Vietnam. (2019). Master Plan for Socio-Economic Development of Ethnic Minority and Mountainous Areas for the Period 2021–2030.
  27. Nguyen, T. T., & Vo, V. T. (2024). Socio-Economic Development of Ethnic Minority Areas in Accordance with the Spirit of the 13th Party Congress Resolution. Journal of Party Building, (7), 22–28.
  28. Bao, T. Q., Thi, N. D., & Khai, M. Q. (2024). Methodology in Assessing Value of Traditional Houses in the Northwest of Vietnam for Sustainable Development and Conservation. Civil Engineering and Architecture, 12(4), 123–130.
  29. Bao, T. Q., Thi, N. D., & Khai, M. Q. (2024). Impacts of Culture on Traditional Housing Architecture of Ethnic Minority in the Vietnamese Northern Mountains. Journal of Design and Built Environment, 2(2024), 45–52.
  30. General Statistics Office & Committee for Ethnic Minority Affairs. (2019). Information on the Survey of Socio-Economic Status of 53 Ethnic Minorities. Statistical Publishing House, Hanoi.
  31. Nguyen, D. T., et al. (2024). Final Report on the Scientific and Technological Project: Developing a System of Criteria for Evaluating and Ranking Traditional Housing Architecture of Ethnic Minorities in the Northern Mountainous Region. Ministry of Education and Training, Hanoi.
  32. Nguyen, V. H. (2010). Impact of Urbanization on the Traditional Culture of Ethnic Minorities. Journal of Cultural Studies, (1), 30–36.
  33. Le, T. T. T. (2015). Cultural Changes among Ethnic Minorities under the Impact of Socio-Economic Development. Journal of Ethnology, (3), 15–22.
  34. Nguyen, D. T. (2025). Some Factors Affecting the Sustainable Development of Housing Architecture for Ethnic Minorities in the Northern Mountainous Regions. Journal of Construction, (4), 55–62.
  35. Tran, V. O. (2017). Impact of Resource Exploitation on Traditional Architecture in the Northwest Region. Vietnam Forestry Journal, (7), 40–46.
  36. Pham, T. T. D. (2021). Impact of Tourism on Traditional Housing Architecture in Sa Pa, Lao Cai. Vietnam Tourism Journal, (5), 28–34.
  37. Feilden, B. M. (2003). Conservation of historic buildings (3rd ed.). Routledge.
  38. UNESCO. (2013). New Life for Historic Cities: The Historic Urban Landscape Approach Explained. United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization, Paris.
  39. Plevoets, F., & Van Cleempoel, K. (2011). Adaptive Reuse as a Strategy Towards Conservation of Cultural Heritage: A Literature Review. Structural Studies, Repairs and Maintenance of Heritage Architecture XII, 118, 155–164.
  40. Nguyen, T. T. P. (2015). Preserving Traditional Architecture Associated with Community Tourism Development in the Northwest Region. Construction Publishing House, Hanoi.
  41. Plevoets, F., & Van Cleempoel, K. (2011). Adaptive Reuse as an Emerging Discipline: An Historic Survey. Re-Architecture: Old Buildings / New Uses, 45–52.
  42. Bullen, P. A., & Love, P. E. D. (2011). Adaptive Reuse of Heritage Buildings. Structural Survey, 29(5), 411–421.
  43. Nguyen, V. T., & Nguyen, H. A. (2020). Restoration of Traditional Architecture in Community Tourism Development: Opportunities and Challenges in Northwest Vietnam. Journal of Folk Culture, (6), 60–66.
  44. EU RESTORE. (2018). Regenerative Heritage. European Union Horizon 2020 Programme. Retrieved from https://www.eurestore.eu/wp-content/uploads/2018/06/Regenerative-Heritage.pdf

Có thể bạn cũng quan tâm

Phát triển kiến trúc nhà ở dân tộc Thái vùng Tây Bắc phục vụ du lịch cộng đồng

Kiến trúc bản địa mới tại Việt Nam: Xu hướng nào phát triển phù hợp trong tương lai?

Cần hiểu đúng về kiến trúc bản địa

Kiến trúc đá ong

Thiết kế kiến trúc trong bối cảnh hội nhập quốc tế: Đừng bỏ quên kinh nghiệm bản địa

TỪ KHÓA:dân tộc Tháikiến trúc bản địakiến trúc nhà ở truyền thống
Bài trước TPHCM có thể thu 120.000 tỉ đồng từ quỹ đất dọc các tuyến metro
Bài tiếp Thông qua Nghị quyết của Quốc hội về Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam
Ad imageAd image

Mới cập nhật

Phiên họp thứ nhất của Tổ công tác liên ngành điều phối xây dựng, triển khai đồng bộ đô thị thông minh
Tin trong nước 16/07/2025
TP.HCM dự chi 7 tỷ USD xây Trung tâm tài chính quốc tế hiện đại bậc nhất khu vực
Kinh tế / Pháp luật 16/07/2025
Xanh hóa giao thông không thể chỉ dựa vào ‘trụ cột’ xe điện
Góc nhìn 16/07/2025
Các thành phố trên thế giới đang triển khai vùng phát thải thấp như thế nào?
Nhìn ra thế giới 15/07/2025
Bất động sản nửa đầu năm: chính sách ‘kéo’ thị trường
Bất động sản 15/07/2025
[Cà phê Net Zero] Quản lý và tái chế chất thải rắn Xây dựng theo mô hình liên kết Nhà nước – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp
Sự kiện 15/07/2025
An Cường công bố Oak Wood Collection | 5IN1 Solution
Trang trí nội thất 14/07/2025
KNC FACADE khởi xướng đối thoại kiến trúc mới với “Touch The Future: Facade or Identity?”
Sự kiện 14/07/2025
Hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải phương tiện giao thông đường bộ
Năng lượng - Môi trường 14/07/2025
Luật Đường sắt 2025: “Bật đèn xanh” cho mô hình đô thị TOD gắn với giao thông công cộng
Kinh tế / Pháp luật 14/07/2025
- Advertisement -
Ad imageAd image

Xem thêm

Kiến trúc

Kiến trúc Nhật Bản – Bài học lớn về Kiến trúc hiện đại bản địa cho Việt Nam?

Ashui.com 28/09/2016
Góc nhìn

Lưu giữ vẻ đẹp truyền thống của nhà sàn dân tộc Thái Tây Bắc

Ashui.com 18/03/2016
Kiến trúc

Giữ gìn và kế thừa kiến trúc nhà sàn dân tộc Thái

Ashui.com 18/11/2015
© 2000-2025 Ashui.com. All Rights Reserved.
Welcome back!

Sign in to your account

Username hoặc Email của bạn
Mật khẩu

Quên mật khẩu?