Ashui.com

Saturday
May 18th
Home Chuyên mục Quy hoạch đô thị Thành phố và Cuộc sống đô thị - Phần 4 - Xu hướng phát triển đô thị ở các nước phát triển

Thành phố và Cuộc sống đô thị - Phần 4 - Xu hướng phát triển đô thị ở các nước phát triển

Viết email In
Chỉ mục bài viết
Thành phố và Cuộc sống đô thị
Phần 2 - Các lý thuyết khác về đô thị
Phần3 - Quá trình phát triển đô thị ở các nước phát triển
Phần 4 - Xu hướng phát triển đô thị ở các nước phát triển
Phần 5 - Quá trình đô thị hóa ở các nước đang phát triển
Phần 6 - Thành phố toàn cầu
Phần 7 - Thành phố hiện đại và vai trò thị trưởng
Tất cả các trang

Xu hướng phát triển đô thị ở các nước phát triển

Trong phần này, chúng ta tiếp tục xem xét một số yếu tố quan trọng của sự phát triển của các đô thị phương Tây thời kỳ sau chiến tranh (thế giới lần thứ II), lấy Liên hiệp Anh và Hoa Kỳ làm ví dụ. Tập trung vào sự gia tăng phát triển khu vực ngoại ô, sự suy thoái khu vực lõi đô thị và chiến lược nhằm đạt được các mục tiêu đổi mới. 

Đô thị hóa ngoại ô

Ở Hoa Kỳ, quá trình đô thị hóa ngoại ô (suburbanization) đã đạt chỉnh điểm vào những năm 1950, 1960. Trong suốt các thập kỷ trên, khu vực nội thành chỉ phát triển khoảng 10% trong khi khu vực ngoại ô đã phát triển tới 48%. Thời kỳ đầu của phong trào dịch chuyển ra vùng ngoại ô hầu hết đều liên quan đến những gia đình người da trắng. Ảnh hưởng của sự gia tăng tỷ lệ pha trộn học sinh (đến từ các dân tộc khác nhau) ở trường học là nhân tố chính dẫn đến quyết định rời bỏ khu vực nội thành. Di chuyển ra ngoại ô là một lựa chọn hấp dẫn cho những gia đình muốn con em họ học trong một ngôi trường thuần da trắng. Thậm chí, đến tận hôm nay người Mỹ ngoại ô phần lớn vẫn là người da trắng. 

Tuy nhiên, sự thống trị của người da trắng ở ngoại ô Hoa Kỳ đã bị xâm thực dần bởi những nhóm sắc tộc thiểu số đang di chuyển đến đây. Phân tích dữ liệu từ cuộc điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2000 cho thấy rằng tỷ lệ các sắc tộc thiểu số ở vùng ngoại ô đã tăng lên 27%, so với 19% vào năm 1990. Tương tự tầng lớp đã di cư đến ngoại ô vào những năm 1950, thành viên mới đến từ các nhóm thiểu số cũng phần lớn thuộc tầng lớp trung lưu. Họ di chuyển để tìm được nhà ở, trường học và nơi ở tốt hơn. Theo ý kiến của Chủ tịch Cơ quan nhà ở Chicago (Chicago Housing Authority), “đô thị hóa ngoại ô không phải là vấn đề tỷ lệ mà là vấn đề tầng lớp xã hội. Chẳng ai muốn sống quanh những người nghèo đói vì đi kèm với đó là trường học nghèo nàn, đường phố không an toàn và tệ nạn băng nhóm” (De Witt 1994).

Ở Anh quốc, nhiều vùng ngoại ô quanh London mọc lên như nấm giữa hai cuộc chiến (thế chiến thế giới I và II) và được khoanh vùng bằng hệ thống đường xây dựng mới và kết nối với trung tâm bằng hệ thống tàu điện ngầm. Một vài sự chuyển đổi cuộc sống đô thị ở các thành phố lớn ở Anh quốc lại được nhìn nhận một cách khinh miệt vào sự mở rộng khu vực ngoại ô với những biệt thự song lập có vườn bao bên ngoài. Những người khác, như nhà thơ John Betjemen (1906-84), sáng lập nên xu hướng lạ lùng nhất trong kiến trúc ngoại ô, sự kết hợp cơ hội việc làm với cuộc sống đô thị gắn với hoạt động tự kinh doanh và sở hữu xe hơi cùng những nhân tố giá trị của gia đình truyền thống.

Ở Anh quốc, người nhập cư từ những khu dân cư trung tâm di chuyển ra vùng ngoại ô hay “thị trấn ký túc xá” (dormitory town) (khu đô thị nằm bên ngoài ranh giới thành phố phục vụ cho những người làm việc ở trung tâm) hoặc các khu làng vào thời điểm năm 1970, 1980; dẫn đến lượng dân cư của vùng Đại London giảm đột ngột xuống còn một nữa triệu người. Tại những thị trấn công nghiệp ở phía Bắc, sự biến mất nhanh chóng của công nghiệp sản xuất trong suốt thời kỳ trên cũng làm giảm đáng kể số lượng dân cư khu vực nội đô. Cùng lúc đó, những thành phố và thị trấn nhỏ lại mọc lên nhanh chóng – như Cambridge, Ipswich, Norwich, Oxford và Leicester. “Những chuyến bay về ngoại ô” gây nên những tác động tiêu cực đến sức khỏe và sức sống vùng nội thành Hoa Kỳ lẫn Liên hiệp Anh, như chúng ta đều đã thấy. Đô thị hóa ngoại ô còn có những ảnh hưởng khác nhau lên đàn ông và phụ nữ (xem phần nội dung “Sử dụng khả năng mường tường xã hội của bạn 1”).

Sử dụng khả năng mường tượng xã hội của bạn 1“ tạo ra” thành phố

Nhìn từ góc độ nữ giới, nhiều học giả đã khảo sát cách thức thành phố tác động đến mối quan hệ giới tính bất bình đẳng trong xã hội và phương pháp để vượt qua điều đó. Jo Beall (1998) lưu ý rằng nếu quan hệ xã hội, ý là trong mối quan hệ giữa đàn ông và phụ nữ, được củng cố bằng sức mạnh, thì đô thị đã chứng minh sự liên quan giữa sức mạnh và không gian ở khía cạnh cái gì, ở đâu, làm cách nào và do ai quyết định được xây dựng. Beall viết “Đô thị, theo nghĩa đen, là hình khối bê tông của ý tưởng: xã hội là gì và nên trở thành như thế nào”.

Sự phát triển của đô thị trong thế kỷ XIX có liên hệ với sự phân biệt giới tính. Không gian và đời sống công cộng được định hình bởi đàn ông, những người có thời gian di chuyển bất cứ khi nào họ muốn. Phụ nữ không được mong đợi được bắt gặp ở những nơi công cộng và những người xuất hiện ở đó lại bị nhìn nhận như là “đứng đường”. Khi tiến trình đô thị hóa ngoại ô bắt đầu, sự phân biệt giới tính càng trở nên rõ hơn. Trong khi đàn ông dẫn dắt gia đình hòa nhập vào thành phố bằng những hoạt động cơ bản hằng ngày, phụ nữ (những người vợ) được trông đợi là sẽ ở nhà chăm sóc gia đình. Hệ thống giao thông được xây dựng để di chuyển giữa ngoại ô và nội thành nhưng rất ít được xây dựng để di chuyển bên trong ngoại ô, kết quả là càng khó hơn nếu phụ nữ muốn rời khỏi nhà (Greed 1994).

Elizabeth Wilson (2002) lập luận rằng sự phát triển của đô thị chưa hẳn đã hoàn toàn xấu đối với phụ nữ. Bà minh chứng rằng phong trào nữ quyền đã giúp giảm bớt một số vai trò mà phụ nữ là nạn nhân phải thực hiện ở môi trường đô thị. Thực tế, sự phát triển của đô thị cung cấp những cơ hội mà hình thái định cư phi đô thị không thể đem đến. Với sự xuất hiện của lớp nữ công sở ở thành phố và sự mở rộng của ngành công nghiệp dịch vụ sau đó, phụ nữ đã đẩy mạnh sự gia nhập vào thế giới việc làm. Do đó, chính đô thị đã cung cấp cho phụ nữ cơ hội thoát khỏi những công việc không lương ở nhà, điều chưa từng tồn tại ở bất kỳ nơi nào khác.

Suy nghĩ phản biện: 
Bạn có biết ví dụ nào về việc “tạo dựng môi trường” trong thành phố của bạn khiến cho việc di chuyển trở nên khó khăn, đặc biệt với phụ nữ? Đó đơn giản là kết quả từ ảnh hưởng của phái mạnh trong kiến trúc hay là sản phẩm của vai trò khác nhau giữa nam và nữ? Hay Wilson đã đúng – cuối cùng sẽ có một thành phố “thân thiện với phái nữ”? 

Sự suy thoái khu vực nội thành (inner-city decay) 

Tại Hoa Kỳ, nội thành đang bị suy thoái, dấu hiệu nhận biết rõ ràng ở tất cả các thành phố lớn trong vài thập kỷ vừa qua, là kết quả trực tiếp của việc phát triển khu vực ngoại ô. Trào lưu nhóm người thu nhập cao rời bỏ khu vực trung tâm đô thị cũng đồng nghĩa với việc giảm sút nguồn thuế địa phương. Vì những nhóm ở lại, hay thay thế, bao gồm những người đang sống trong nghèo đói, có ít khả năng thay thế được sự mất mát này. Nếu tỷ lệ càng tăng cao, nhóm nhà giàu và doanh nhân càng có xu hướng rời bỏ trong tương lai.

Tình trạng này càng trở nên tồi tệ hơn khi trong thực tế cổ phiếu xây dựng ở khu trung tâm đang đi xuống so với khu ngoại ô, trong khi tỷ lệ tội phạm và thất nghiệp tăng cao. Vì thế, ngày càng phải chi tiêu nhiều hơn cho phúc lợi xã hội, giáo dục, bảo quản công trình xây dựng, cảnh sát và dịch vụ chữa cháy. Vòng xoáy suy thoái (circle of deterioration) lan rộng trong khi vùng ngoại ô càng mở rộng, càng gia tăng vấn đề ở nội thành. Nhiều vùng đô thị ở Hoa Kỳ đang ở trong tình trạng bi đát, đặc biệt là những thành phố cũ như New York, Boston và Washington. Trong một số khu dân cư ở các thành phố này, tình trạng suy thoái nghèo đói tồi tệ hơn ở bất kỳ thành phố lớn thuộc các nước công nghiệp nào. Những tòa nhà cho thuê xuống cấp, hoang phế, cháy đen lần lượt trống người ở cùng với những khu đất trống bao trùm lên đống đổ nát.


Hình 4 – Suy thoái khu vực nội đô

Ở Anh quốc, tình trạng suy thoái khu vực trung tâm ít nhận thấy hơn ở Mỹ. Nhưng một vài khu trung tâm cũng bị tàn phá như vậy. Một báo cáo quan trọng của Giáo hội Anh (Church of England), Đức tin trong Thành phố (Faith in the City), mô tả khu vực nội thành bằng những từ ảm đảm: Những bức tường xám xịt, đường phố đầy rác, cửa sổ hỏng, Graffiti, sự phá hoại, chất thải là thực trạng tiêu điều của những quận mà chúng ta nhận thấy…khu định cư trung tâm già cỗi hơn bất kỳ nơi nào khác. Khoảng ¼ nhà ở ở Anh được xây dựng từ trước năm 1919, từ40% đến 60 % trong đó nằm ở khu vực trung tâm (1985:18).

Một lý do nữa làm suy thoái khu nội thành là những sự ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng tài chính. Từ sau năm 1975 trở đi, chính phủ đã tăng áp lực lên những nhà điều hành địa phương nhằm hạn chế ngân quỹ và cắt giảm các dịch vụ địa phương, thậm chí áp dụng ngay cả tại khu vực nội thành vốn đã xuống cấp nặng. Chính sách này dẫn đến sự mâu thuẫn giữa chính quyền và nhiều hội đồng đang vật vã vì không thể tiếp cận với ngân sách. Một số lượng lớn các hội đồng thành phố phát hiện họ có ít thu nhập hơn trước đây và buộc phải cắt giảm những dịch vụ cần thiết.

Sự suy thoái nội đô ở Liên hiệp Anh còn liên hệ với sự thay đổi kinh tế toàn cầu. So với Anh quốc, những nước công nghiệp mới như Singapore, Đài Loan và Mexico thường có giá nhân công rẻ hơn, một yếu tố quan trọng khiến những nước này trở thành môi trường đầu tư hấp dẫn cho ngành sản xuất công nghiệp. Để đối phó với tình trạng trên, trong những thập kỷ vừa qua, một số quốc gia công nghiệp – như Nhật Bản và Tây Đức – đã chuyển đổi nền kinh tế vào những ngành đòi hỏi đầu tư công nghệ cao và đội ngũ nhân sự trình độ cao kỹ năng chuyên nghiệp.

Trong một nghiên cứu quan trọng, Bên trong nội thành (Inside the Inner-City), Paul Harrison (1983) chứng minh ảnh hưởng của những thay đổi toàn cầu đến Hackney, hiện vẫn là một trong những khu nghèo nhất London. Những năm 1970 là thời kỳ sa sút của ngành sản xuất ở Hackhey song hành với sự sa sút chung của đất nước. Số lượng công việc trong ngành sản xuất giảm từ 45.500 năm 1973 xuống còn 27.400 năm 1981 – giảm 40%. Đến giữa những năm 1970, tỷ lệ thất nghiệp ở Harley bằng với tỷ lệ chung, đến năm 1981 đã tăng thêm 17,1% (cao hơn 50% so với tỷ lệ trung bình). Số lượng người sống trong nghèo đói gia tăng tương ứng với số lượng người không có việc. Harrison tóm tắt về những người ở trong hoàn cảnh khó khăn này như sau:

Nguồn lực chính phủ nghèo nàn và dịch vụ nhỏ giọt; dịch vụ chăm sóc sức khỏe kém vì bác sỹ không thể tìm thấy những nơi có thể hành nghề; trình độ giáo dục kém vì nền tảng học vấn gia đình thấp và thiếu khả năng theo đuổi việc học; hơn hết là trình trạng tội phạm gia tăng, lan tràn phá hoại và đỗ vỡ gia đình; và bất cứ nơi nào có nhiều cộng đồng khác biệt văn hóa cùng sinh sống sẽ có sự xung đột tôn giáo và sắc tộc (1983:23-4).

Thỉnh thoảng tình trạng khó khăn vượt quá kiểm soát gây bùng nổ, lan rộng ra thành xung đột và bạo loạn.

Bạo loạn và bất ổn đô thị (Riots and urban unrest) 

Trong thời đại toàn cầu hóa, thời của dịch chuyển dân số và những thay đổi chóng mặt, những đô thị lớn trở thành nơi tập trung và khuếch trương các vấn đề xã hội có tầm ảnh hưởng toàn thể. Thường xuyên hơn, những xung đột “ngầm” bên trong đô thị, do tình trạng thất nghiệp và căng thẳng sắc tộc gây nên, diễn ra như chấn động xã hội (social earthquakes). Những xung đột âm ĩ khi bùng phát thường mang tính bạo lực dưới hình thức bạo loạn, cướp bóc và phá hủy lan rộng. 

Tình trạng trên đã xảy ra ở Hoa Kỳ vào mùa xuân năm 1992 khi bạo loạn nhấn chìm một phần Los Angeles. Tương tự, vào năm 2005, khoảng 5.000 người ở Sydney, Australia liên quan đến bạo loạn (được biết đến dưới tên gọi cuộc bạo loạn Cronulla), theo báo cáo hành vi đấu tranh bởi “người ngoài”, tổ chức thanh niên Trung đông và liên hệ đến những nhóm được tập hợp để đấu tranh phản đối. Trong khi bạo loạn thường liên quan đến những nhóm phản đối thiếu tổ chức dễ dẫn đến bạo lực thì bất ổn đô thị có thể ở hình thức khác, thường biến thành đấu tranh chính trị và không hạn chế chỉ trong các nước phát triển. Chẳng hạn, cuộc đấu tranh ở quảng trường Thiên An Môn, Bắc Kinh, Trung Quốc khởi phát từ phong trào đấu tranh kêu gọi cải cách chính trị và những cuộc cắm trại phản đối tham nhũng của sinh viên vào năm 1989. Từ 1.000 đến 3.000 người đã bị giết bởi sự đàn áp của quân đội trong suốt và sau cuộc đấu tranh.

Rất nhiều thành phố trên thế giới là nhân chứng cho tình trạng bất ổn đô thị vào cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI. Trong thời đại toàn cầu hóa, đô thị trở thành yếu tố then chốt cho biểu tượng đấu tranh, biểu tình và bất ổn liên quan đến xung đột sắc tộc, phong trào dễ dàng lan rộng khắp thế giới thông qua phương tiện truyền thông và internet. Chẳng hạn, xung đột sắc tộc bị thúc đẩy bởi hệ thống nhà ở và hạ tầng xuống cấp dẫn đến bạo loạn ở nhiều thành phố nước Pháp cuối năm 2005, lan rộng khắp Châu Âu thông qua mối quan hệ nhập cư và liên hệ giữa các nhóm dân tộc. Ở Anh quốc, là các nơi như Brixton, Nam London vào năm 1981, 1985 và 1995; ở Ely, Cardiff năm 1991; ở Oldham, Burnley và Lidget Green thuộc Bradford năm 2001 và Birmingham năm 2005. Bạo loạn năm 2001 ở Bradford liên quan đến cuộc đụng độ giữa các thành viên thuộc các nhóm sắc tộc và văn hóa khác nhau dẫn đến tấn công cảnh sát và phá hủy tài sản.

Tiếp theo sau cuộc bạo loạn năm 2001, chính phủ đã thành lập Đội xem xét sự gắn kết cộng đồng (Community Cohesion Review Team), do Ted Cantle đứng đầu, để lập các báo cáo tìm hiểu nguyên nhân của cuộc bạo loạn. Báo cáo phát hiện tình trạng phân cực sâu sắc giữa các cộng đồng sắc tộc khác nhau tại các đô thị ở Liên hiệp Anh. Tồn tại nhiều khía cạnh phân trong cuộc sống dân cư hằng ngày; chẳng hạn, sự chia cắt trong sắp xếp các hoạt động giáo dục, các cơ quan tình nguyện, vị trí công việc, nơi cầu nguyện và ngôn ngữ. Một người Hồi giáo gốc Pakistan, trả lời phỏng vấn, đã tóm gọn: “Khi tôi rời khỏi cuộc gặp mặt này và trở về nhà và sẽ không nhìn thấy bất kỳ một người da trắng nào khác cho đến khi tôi quay lại đây gặp ông vào tuần tới”. Báo cáo chỉ rõ:

Đây là tình huống mà có rất ít nỗ lực để làm rõ những giá trị khi một người là công dân của thành phố Anh quốc đa sắc tộc và nhiều người vẫn còn hoài niệm về một xã hội đơn thuần như trước đây hoặc hướng về quê hương để tìm kiếm một vài hình thái bản sắc.

Báo cáo đề nghị một sự gắn kết cộng đồng rộng rãi trong xã hội là cần thiết, dựa trên kiến thức, sự liên hệ và tôn trọng sự khác biệt văn hóa, điều đã tạo nên một Anh quốc. Để làm được điều đó, “cần thiết phải xây dựng tinh thần công dân, dựa trên (một số) nguyên tắc chung được công đồng chia sẻ và tuân theo. Tinh thần công dân cũng là nơi thuận lợi để phát huy những giá trị văn hóa khác nhau”. Để đạt được mục tiêu này, báo cáo kêu gọi một cuộc tranh luận cấp quốc gia được tổ chức tốt, những hoạt động mạnh mẽ của người trẻ và tuyên truyền niềm hy vọng rằng những cuộc tranh luận sẽ dẫn dắt tinh thần công dân, sáng tạo nên những phương pháp tiếp cận các vấn đề giáo dục, nhà ở, tái chế và việc làm một cách mạch lạc (Cantle 2001). Điều chúng ta có thể thu thập từ báo cáo là điểm chung từ những hành động bạo lực và phá hoại tự phát có thể bắt nguồn từ những vấn đề kinh tế và xã hội “ngầm” nghiệm trọng mà chỉ cần được kích hoạt bởi một sự kiện địa phương là có thể bùng phát thành bạo loạn. Nỗ lực giải quyết các vấn đề “ngầm” có thể dẫn đến những chương trình đổi mới đô thị.

Đổi mới đô thị (Urban renewal)

Chính quyền địa phương, vùng và quốc gia nên áp dụng phương pháp tiếp cận nào để giải quyết những vấn đề đang hủy hoại khu vực nội đô? Sự bành trướng nhanh chóng khu vực ngoại ô cần được kiểm soát như thế nào để tránh gây hại đất cây xanh và vùng nông thôn? Một chính sách đổi mới đô thị thành công đặc biệt phải đối mặt với rất nhiều thử thách bởi vì nhu cầu cùng lúc phải chiến đấu trên nhiều mặt trận khác nhau.

Ở nhiều nước phát triển, hàng loạt những chương trình quốc gia – liên quan đến, chẳng hạn, cung cấp hỗ trợ sửa chữa nhà ở và các khoản thuế kinh doanh – đã được giới thiệu để tái thiết khu vực nội đô. Trong vài thập kỷ qua, hàng loạt chương trình của chính phủ đã được triển khai bằng nhiều cách thức khác nhau nhằm theo đuổi mục tiêu tái tạo đô thị (urban regeneration). Chương trình của Đảng Bảo thủ Anh “Hành động vì đô thị” (Action for Cities) năm 1988, chẳng hạn, tìm kiếm những khoản đầu tư cá nhân và nguồn lực tự do thị trường để thực hiện các mục tiêu phát triển chung hơn là trông chờ vào sự đầu tư của nhà nước. Tuy nhiên, kết quả phản hồi thấp hơn dự đoán. Vì dường như có quá nhiều vấn đề phải đối mặt trong khu vực nội đô nên các chương trình triển khai có xu hướng sụt giảm giá trị hoặc lặp lại khi mà hiệu quả lại không thể đến ngay lập tức.

Nghiên cứu cho thấy, ngoài các dự án hướng đến các mục tiêu ngắn hạn, nhỏ lẻ, việc cung cấp các ưu đãi và kỳ vọng doanh nghiệp tư nhân thực hiện nhiệm vụ của họ không đem hiệu quả như là một cách để giải quyết các vấn đề xã hội cơ bản được tạo ra ở khu vực trung tâm đô thị. Nhiều hoàn cảnh áp bức đi cùng nhau ở khu vực nội thành làm đảo ngược quá trình suy thoái một khi được triển khai trong các tình huống khó khăn. Điều tra sâu bên trong thành phố, chẳng hạn như báo cáo Scarman về các cuộc bạo loạn Brixton năm 1981, đã lưu ý về việc thiếu một cách tiếp cận phối hợp với các vấn đề ở khu vực nội thành (Scarman 1982). Nếu không có các khoản chi tiêu công lớn – điều chẳng có gì giống với chương trình phát triển của chính phủ - triển vọng cải thiện triệt để tình hình là rất mong manh (Macgregor và Pimlott 1991).

Năm 1997, Đảng Lao động triển khai hai quỹ tái thiết chính: quỹ thỏa thuận mới với cộng đồng và quỹ tái thiết khu dân cư. Một vài nguồn lực khác tập trung vào các hoạt động đặc biệt có giá trị quan trọng đối với quá trình tái thiết đô thị, bao gồm nguồn tiền từ Công ty xổ số Quốc gia, quỹ hành động vùng vì sức khỏe, việc làm và giáo dục và nguồn tiền từ Tập đoàn nhà ở cho các dự án nhà ở xã hội mới, 60% trong số đó được dùng cho các chương trình tái thiết. Một điểm khác biệt quan trọng giữa các chương trình đang triển khai và các chương trình trước đây là các chương trình trước đây có xu hướng quan tâm đến khía cạnh vật chất của sự tái thiết, trong khi các chương trình hiện tại cố gắng kết hợp các vấn đề xã hội và kinh tế.

Quỹ thỏa thuận mới với cộng đồng là chương trình tái thiết quan trọng hàng đầu của Đảng Lao động. Được triển khai năm 1998, hiện có 39 cộng đồng đang thực hiện chương trình ở khắp Anh quốc. Mục tiêu của chương trình là giảm các bất lợi ở những khu nghèo nhất bằng cách tập trung vào năm vấn đề: viễn cảnh công việc tồi tệ, tỷ lệ tội phạm cao, giáo dục theo thành tích, chăm sóc sức khỏe kém và các vấn đề về nhà ở và môi trường (ở khía cạnh vật lý). Quỹ tái thiết khu dân cư, bắt đầu từ năm 2001, hướng đến những khu vực đô thị bị tước đoạt nặng nhất, nhằm mục đích thu hẹp khoảng cách giữa những khu vực đô thị bị tước đoạt với những khu vực còn lại thuộc Anh quốc (Ban Tái thiết khu dân cư 2004).

Một số ý kiến thắc mắc về sự tồn tại tính hiệu quả của các chương trình tái thiết như vậy. Các chương trình từ trên xuống của chính phủ có thể đạt được sự ủng hộ và liên quan đến người dân địa phương như thế nào thường có ý nghĩa quan trọng đối với sự thành công của chương trình? Liệu nguồn lực công có thực sự kích thích nền kinh tế địa phương và tạo ra công ăn việc làm? Làm thế nào các chương trình tái thiết có thể ngăn ngừa các vấn đề di cư từ vùng này sang vùng khác (Weaver 2001)?

Chỉnh trang và “tái sử dụng đô thị” (Gentrification and urban recycling)

“Tái sử dụng đô thị” – tân trang hay thay thế những tòa nhà cũ và mới dùng cho việc phát triển đất đai trước đó – đang trở nên phổ biến tại các đô thị lớn. Việc này sẽ được tiện thể thực hiện như một phần của chương trình quy hoạch, nhưng thông thường đó là kết quả của chương trình chỉnh trang đô thị - làm mới những tòa nhà trong những khu dân cư đã bị phá hủy nhằm cung cấp cho những nhóm có thu nhập cao hơn, cung cấp các tiện nghi như các cửa hiệu và nhà hàng để phục vụ họ. Quá trình chỉnh trang đô thị khu vực nội đô đang diễn ra ở nhiều thành phố Anh Quốc, Hoa Kỳ và nhiều quốc gia phát triển khác; quá trình dường như sẽ còn tiếp diễn trong nhiều năm tới.

Tại Hoa Kỳ, nhà xã hội học Elijah Anderson phân tích ảnh hưởng của quá trình chỉnh trang đô thị trong quyển sách của ông Chủng tộc, Tầng lớp và thay đổi ở cộng đồng đô thị (Race, Class and Change in an Urban Community - 1990). Trong khi việc chỉnh trang mới các khu dân cư thường làm tăng giá trị bất động sản, thì quá trình đó hiếm khi nâng cao mức sống của cư dân thu nhập thấp hiện hữu, những người thường bị gây áp lực phải rời đi. Tại khu dân cư Philadelphia, theo nghiên cứu của Anderson, những người da đen bị lên án, bị gây áp lực khiến cho hơn 1000 người phải rời đi. Mặc dù họ được thông báo rằng tài sản (đất) của họ sẽ được dùng để xây dựng nhà giá thấp, mà họ sẽ được ưu tiên mua đầu tiên, chứ không phải những tòa nhà thương mại và trường học lớn hiện nay đang tạo lạc ở đó.

Những người nghèo vẫn tiếp tục sống ở khu dân cư hiện hữu nhận được những lợi ích từ việc nâng cấp trường học và hệ thống cảnh sát bảo vệ, nhưng kết quả từ việc tăng thuế và giá nhà thuê cuối cùng lại khiến họ phải rời đến sống ở những khu vực phù hợp mức sống hơn, hầu hết là các khu vực mà các vấn đề xã hội đã được giải quyết tốt hơn. Nhóm dân da đen, được Anderson phỏng vấn, thể hiện thái độ oán giận đối với nhóm “yuppies” (nhóm người trẻ hành nghề chuyên nghiệp tại đô thị, như chuyên viên tài chính, giảng viên, bác sỹ - ND) chịu trách nhiệm trước những thay đổi của đô thị đã khiến những người nghèo phải rời đi.

Những người da trắng mới đến di chuyển đến khu vực nội đô thành phố nhằm tìm kiếm nhà “cổ” giá rẻ, ở gần nơi làm việc của họ trong trung tâm và tạo một phong cách sống đô thị. Họ biểu lộ xu hướng "cởi mở" về sự khác biệt chủng tộc và dân tộc; tuy nhiên trong thực tế, hiếm có tình bằng hữu giữa những người cũ và người mới, trừ khi họ ở cùng tầng lớp xã hội. Bởi vì người đen chủ yếu là người nghèo và người da trắng là tầng lớp trung lưu, sự khác biệt giai cấp đã pha trộn với sự khác biệt dân tộc. Trong khi một số ít người da đen trung lưu sống trong khu vực, hầu hết những người có khả năng đã chọn lối sống ngoại ô nhiều hơn vì họ sợ rằng sẽ nhận được từ người da trắng cách đối xử tương tự như với người da đen tầng lớp thấp. Theo thời gian, khu phố đã được dần dần chuyển thành vùng đất của tầng lớp trung lưu da trắng.

Một lý do đằng sau quá trình chỉnh trang đô thị là nhân khẩu học. Những chuyên gia đô thị đang có xu hướng lựa chọn việc kết hôn và lập gia đình muộn hơn, kết quả là, cần nhiều nhà ở hơn cho cá nhân và các cặp chung sống, chứ không phải là cho gia đình. Tại Anh quốc, chính phủ dự đoán sẽ có thêm 3,8 triệu hộ gia đình sẽ được hình thành trong khoảng thời gian từ năm 1996 đến 2021 (Đội công tác đô thị 1999). Bởi vì những người trẻ tuổi lập gia đình muộn và công việc của họ thường đòi hỏi thời gian dài ở lại văn phòng trong thành phố, cuộc sống ở vùng ngoại ô ngày càng trở thành một sự bất tiện hơn là một tài sản. Những cặp đôi không con giàu có có khả năng chi trả những căn nhà đắt tiền ở khu vực nội đô và ưa thích xây dựng phong cách sống xung quanh những khu vực có văn hóa, ẩm thực và giải trí cao cấp hiện hữu ở đây. Những cặp vợ chồng lớn tuổi mà con cái đã sống riêng cũng muốn quay về với cùng một lý do.
Có một điều quan trọng là tiến trình chỉnh trang đô thị luôn đi song hành với một tiến trình khác đã được đề cập từ trước: sự chuyển đổi hình thái kinh tế đô thị từ sản xuất hàng hóa sang cung cấp dịch vụ. Mối liên quan đến nạn nhân của các tiến trình này là một chỉ trích đối với sự tồn tại của đô thị.

Tại London, DockIands là một ví dụ điển hình của “tái sử dụng đô thị”. Khu vực Docklands ở Đông London trải dài trên khoảng 8,5 dặm vuông (13,68 km2) nằm tiếp giáp sông Thames – tước bỏ chức năng kinh tế của mình bằng cách đóng cửa bến tàu và cắt giảm hoạt động công nghiệp. Docklands không chỉ gần khu tài chính của thành phố London mà còn tiếp giáp với khu vực tầng lớp lao động nghèo ở phía bên kia. Từ sau những năm 1960 đã có những trận chiến khốc liệt – vẫn còn tiếp tục đến ngày hôm nay - về những gì nên diễn ra ở khu vực này. Nhiều người sống bên trong hoặc gần Docklands ủng hộ tái xây dựng lại bằng các phương tiện cộng đồng, hướng tới bảo vệ lợi ích của người nghèo. Trong chương trình này, với việc thành lập Tổng công ty Phát triển Docklands (Docklands Development Corporation) vào năm 1981, khu vực đã trở thành trung tâm trong chiến lược của Đảng Bảo thủ, chi phối chiến lược khuyến khích doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò chính trong tái thiết đô thị. Các khó khăn của yêu cầu và quy định quy hoạch đã cố tình được làm cho dễ dãi. Khu vực ngày nay được bao phủ trong những tòa nhà hiện đại, thường mạo hiểm trong thiết kế. Các kho hàng được chuyển thành những căn hộ sang trọng và các tòa nhà mới được xây dựng bên cạnh. Một khu văn phòng rất lớn, có thể nhìn thấy từ nhiều nơi ở London, đã được xây dựng tại Canary Wharf. Tuy nhiên, trong bối cảnh lung linh vẫn còn những tòa nhà đổ nát và những bãi đất hoang trống kéo dài. Không gian để xây dựng văn phòng còn khá trống nên những kẻ mới đến vẫn tìm cách đoạt lấy những khu đất chưa bán được với giá gốc. Khu dân cư ở Docklands có một vài hộ sống trong điều kiện tồi tàn nhất nước nhưng nhiều người trong số họ phản đối rằng họ nhận được rất ít lợi ích từ những công trình xây dựng đang mọc lên xung quanh.

Tại Mỹ, những nhà đầu tư đã mua lại các nhà kho công nghiệp cũ tại các thành phố từ Milwaukee đến Philadelphia và chuyển đổi chúng thành những khu giảng đường và studio sang trọng. Việc tạo ra các không gian công cộng sôi động tại các trung tâm đô thị bỏ hoang ở Baltimore và Pittsburgh đã được dự báo là một thắng lợi của đổi mới đô thị. Tuy nhiên, rất khó để che giấu sự thiếu thốn vẫn còn hiện hữu trong những khu dân cư bị ngăn chặn khỏi các khu trung tâm đô thị được hồi sinh.

Lập luận chống lại sự phát triển các khu vực như Docklands trong cuốn sách về lịch sử của thành phố, Lương tâm của mắt (The Conscience of the Eye - 1993), Richard Sennett cho rằng cần có những nỗ lực được các nhà quy hoạch đô thị thực hiện để bảo tồn hoặc quay về với những gì ông gọi là “thành phố nhân đạo” (the humane city). Những tòa nhà lớn, thiếu tính nhân hóa ở nhiều đô thị khiến con người trở nên hướng nội, xa lánh người khác. Nhưng đô thị có thể khiến con người cởi mở hơn, kết nối họ với văn hóa đa dạng và các phương cách sống khác nhau. Chúng ta nên tìm cách tạo ra những đường phố không chỉ là không đáng sợ mà còn “đầy sức sống”, trong “động mạch giao thông dành cho tất cả xe cộ đang chuyển động vội vã hoặc không cho ai cả”. Các trung tâm mua sắm ngoại ô được tiêu chuẩn hóa cho việc đi bộ và các cửa hàng mua sắm được đem ra xa khỏi “thành phố nhân đạo” như hệ thống đường cao tốc. Sennett cho rằng thay vào đó, chúng ta có thể tìm cảm hứng ở khu vực đô thị cũ, như những gì người ta tìm thấy tại trung tâm thành phố nước Ý, từ quy mô người ở tới sự kết hợp phong phú các thiết kế sang trọng. 



 

Thêm bình luận


Mã an toàn
Đổi mã khác

Bảng quảng cáo