Nếu Việt Nam tạo ra một môi trường pháp lý và quy định phù hợp, cụ thể là xây dựng Luật Đầu tư, theo hình thức đối tác công-tư sẽ là điều cần thiết lúc này để không chỉ thúc đẩy mà còn tăng cường hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài vào mọi lĩnh vực kinh tế, đặc biệt để phát triển cơ sở hạ tầng, theo góp ý của các chuy6en gia kinh tế quốc tế.
Theo báo cáo của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), chỉ 10% cơ sở hạ tầng của Việt Nam được cấp vốn bởi khu vực tư nhân. Tỷ lệ này thấp hơn đáng kể so với nhiều quốc gia có mức thu nhập trung bình khác tại châu Á.
Đường cao tốc La Sơn - Túy Loan đoạn qua huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên-Huế. (Ảnh: TTXVN)
Các chuyên gia kinh tế về hợp tác đối tác công tư (PPP) và phát triển khu vực kinh tế tư nhân của ngân hàng ADB cho rằng, nếu Việt Nam xây dựng Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công-tư sẽ tăng hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài vào mọi lĩnh vực kinh tế, đặc biệt để phát triển cơ sở hạ tầng.
Đánh giá việc xây dựng và soạn thảo Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công-tư (Luật PPP), ông Sanjay Grover, chuyên gia về Hợp tác công tư của ADB cho rằng, đó là việc phức tạp và đòi hỏi sự tinh tế.
Nếu không cẩn thận, Chính phủ có thể phải gánh khoản nợ tiềm tàng tới hàng triệu đôla Mỹ. Nhưng nếu quá chặt chẽ, đầu tư sẽ ngưng trệ và các Chính phủ thường phải chờ vài năm trước khi thông qua một luật mới.
Do đó, Việt Nam hay các Chính phủ khác nên lưu ý khi soạn thảo Luật PPP để thu hút đầu tư theo hình thức đối tác công-tư hiệu quả.
Nhìn vào các công trình, dự án PPP về cơ sở hạ tầng đã có ở Việt Nam hiện nay, ông Donald Lambert, Chuyên gia chính về Phát triển khu vực tư nhân của ADB nhận định, khi có sự tham gia của các đối tác phát triển trong một dự án PPP, công trình, dự án ấy sẽ được rà soát toàn diện của bên cấp vốn giàu kinh nghiệm.
Cùng với đó, việc bảo lãnh của ngân hàng sẽ đảm bảo cho khoản doanh thu tối thiểu, cũng như giảm thiểu toàn diện những rủi ro đối với môi trường và xã hội.
Các khoản thanh toán sẵn có đã được giải ngân từ một thể chế bên ngoài quốc gia nên sẽ không phải chịu rủi ro về chuyển đổi hay tỷ giá. Những lợi thế này sẽ giúp giảm phí bảo hiểm rủi ro và tối đa hóa giá trị đồng vốn của Chính phủ. Tuy đây không phải là vấn đề lớn, nhưng Việt Nam và Chính phủ các quốc gia khác nên cân nhắc việc công khai cho phép các thể chế tài chính phát triển đóng vai trò trung gian này, ông Donald khuyến nghị.
Từ kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các quốc gia thường thông qua luật về PPP do sự cấp thiết về tài chính, nhưng các chuyên gia kinh tế khẳng định, thực tế không phải như vậy. Một Luật Đầu tư về PPP nếu được soạn thảo kỹ lưỡng có thể định hướng tài trợ cho cơ sở hạ tầng ở Việt Nam cũng như trong khu vực.
Cùng với đó, có thể giúp các Chính phủ duy trì kỷ luật tài khóa và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển một cách hiệu quả hơn.
Gợi ý một số cách thức để đạt hiệu quả mong muốn trong thu hút đầu tư theo hình thức đối tác công tư, ông Sanjay Grover cho rằng, bảo lãnh hiện đang là cách thức hiệu quả nhất để thu hút khu vực tư nhân đầu tư vào cơ sở hạ tầng ở Việt Nam.
Do đó, việc thận trọng trong bảo lãnh là điều cần thiết. Với chính sách tài khóa ngày càng thắt chặt và tỷ lệ nợ trên GDP cao; cùng với nguồn lực hạn chế để đáp ứng nhu cầu rất lớn về cơ sở hạ tầng, các khoản bảo lãnh có thể cho phép Việt Nam hỗ trợ vai trò “công” trong các thỏa thuận đối tác công-tư một cách hiệu quả và hiệu lực hơn.
Bên cạnh đó, đầu tư theo hình thức đối tác công-tư sẽ giúp tối đa hóa giá trị đồng tiền bằng cách phân bổ rủi ro cho bên có năng lực quản lý tốt nhất.
Việt Nam đang rất cần sự hỗ trợ về nhiều mặt, từ việc giảm thiểu rủi ro về nhu cầu đối với một tuyến đường cao tốc có tầm quan trọng chiến lược quốc gia, đến việc hỗ trợ chi phí xây dựng phát sinh do sự khó định lượng các điều kiện địa chất hay địa hình đồi núi hoặc do sự chậm trễ giải phóng mặt bằng ở các đô thị.
Ông Sanjay nhấn mạnh, điều quan trọng là Luật PPP mới phải đủ toàn diện để cho phép Chính phủ linh hoạt trong việc cơ cấu phân bổ rủi ro dự án nhằm tối đa hóa giá trị đồng tiền.
Một luật về PPP rộng và toàn diện cần phải được chi tiết hóa bằng các Quy định, Nghị định và Thông tư cụ thể của từng lĩnh vực. Các Thông tư cần được cập nhật để đáp ứng sự vận động của thị trường nên có thể được sửa đổi thường xuyên hơn so với luật.
Điều này bảo đảm sự linh hoạt theo luật và Chính phủ cũng không mất kiểm soát về tài khóa cũng như các khoản bảo lãnh chỉ được cung cấp khi cần (không nhiều hơn so với nhu cầu, để khiến dự án thu hút được nhà đầu tư).
Ông Sanjay Grover đề nghị, khi xây dựng và soạn thảo luật mới, Việt Nam nên nghiên cứu, phân tích và so sánh sự hữu ích của các mô hình mà một số quốc gia tiên tiến đang tiến hành để từ đó chắt lọc những nội dung phù hợp với điều kiện thực tiễn của mình.
Tuy nhiên, vị chuyên gia này cũng lưu ý, ngay giữa các quốc gia có cùng trình độ phát triển kinh tế, những so sánh rút ra cũng phải rất thận trọng, đặc biệt là sự khác biệt về cơ chế mua sắm đấu thầu, sự biến động của tiền tệ, hệ thống kiểm soát và đối trọng cùng những yếu tố khác mà các nhà đầu tư nên cân nhắc....
Cũng theo các chuyên gia kinh tế, trong bối cảnh hiện nay, mối quan hệ công tư-giữa Nhà nước và khu vực tư nhân cần phải có sự thay đổi để thích ứng với tình hình thời cuộc.
(Theo TTXVN)
- Sân bay Long Thành bị chê đắt đỏ, Chính phủ giải trình câu hỏi nóng
- Luật Đất đai 2013 sửa đâu sai đó, đề xuất làm luật mới
- Di dời ga Sài Gòn để kết nối tuyến metro số 2: Mục đích phục vụ giao thông hay kinh doanh bất động sản?
- Biểu quyết trong chung cư: Chủ căn hộ lớn sẽ có "quyền" hơn
- Đồng Nai tính làm đường 6.600 tỷ nối sân bay Long Thành với Tp.HCM
- Tp.HCM: 9 tháng năm 2019, doanh nghiệp xây dựng giảm 30-50% số hợp đồng
- Tập đoàn Ecopark mở rộng đối tác phát triển và phân phối
- Hai tuyến metro của TP HCM được gỡ khó
- Đà Nẵng liệu có bỏ cảng Liên Chiểu, phát triển cảng Tiên Sa?
- Sắp khởi công loạt dự án giao thông vốn đầu tư hàng nghìn tỷ đồng