
Câu chuyện đô thị chống chịu không còn là lựa chọn mà đã trở thành yêu cầu bắt buộc. Chuyên đề 2 của Diễn đàn Phát triển bền vững đô thị Việt Nam 2025, diễn ra sáng 5/11, có chủ đề: “Đô thị an toàn và thích ứng với biến đổi khí hậu – Hướng tới tăng trưởng xanh, bền vững”.
Những năm trở lại đây, biến đổi khí hậu (BĐKH) đã trở thành rủi ro phát triển, kéo theo hệ lụy đồng thời lên tăng trưởng, ngân sách và an sinh. Với hơn 60% dân số và 70% tài sản tập trung ở vùng ven biển và đồng bằng thấp, đô thị Việt Nam đứng trước “bài kiểm tra” năng lực chống chịu dưới tác động của mưa lớn cường độ cao, triều cường, nước biển dâng và nắng nóng kéo dài.
Chuyển từ “phòng ngừa bị động” sang “quản trị rủi ro chủ động”

Theo ông Nguyễn Cao Viên – Phó Cục trưởng Cục Phát triển đô thị (Bộ Xây dựng), khung chính sách quốc gia đã dần định hình nền tảng từ Đề án số 438/QĐ-TTg năm 2021 về phát triển đô thị ứng phó BĐKH, Chiến lược quốc gia về BĐKH đến năm 2050 tại Quyết định số 896/QĐ-TTg năm 2024, Nghị quyết số 06-NQ/TW về phát triển đô thị bền vững; cho tới việc cập nhật các luật chuyên ngành như: Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn 2024, Luật Nhà ở 2023, Luật Bảo vệ môi trường 2020…
Cho nên, tại thời điểm này, thách thức thực sự nằm ở việc chuyển hóa “tinh thần chính sách” thành năng lực thực thi trong một bối cảnh khí hậu ngày càng cực đoan, vượt xa giả định thiết kế truyền thống.
Ngay ở cấp định hướng, ông Nguyễn Cao Viên nhấn mạnh sự dịch chuyển căn bản từ “phòng ngừa bị động” sang “quản trị rủi ro chủ động”. Nếu rủi ro khí hậu không được nhận diện và sàng lọc ngay từ bước lập quy hoạch, mọi nỗ lực đầu tư hạ tầng về sau sẽ chỉ là “chữa cháy”, vừa tốn kém vừa kém hiệu quả.
Vì thế, Bộ Xây dựng đang vận hành đồng thời hai “hạ tầng mềm”: Bộ chỉ số đô thị chống chịu BĐKH để đo mức độ dễ tổn thương – khả năng phục hồi của từng đô thị; và Atlas đô thị và khí hậu để hiển thị phơi nhiễm ngập lụt, xâm nhập mặn, sạt lở, nước biển dâng, đảo nhiệt…
Tuy nhiên, ông Nguyễn Cao Viên lưu ý, đô thị chống chịu không phải mô hình sao chép, mỗi đô thị có đặc thù riêng tương ứng với giải pháp thích ứng: TP.HCM cần tích hợp kiểm soát triều và mưa cực đoan gắn với không gian trữ nước ven đô; Đà Nẵng phải coi “giữ nước – điều tiết nhanh” theo địa hình dốc là nguyên tắc; Cần Thơ ưu tiên điều tiết theo lưu vực Mê Kông; Hà Nội coi vành đai xanh – nước sông Hồng – sông Nhuệ – hồ Tây là “hạ tầng điều tiết khí hậu”. Trả lại không gian cho nước là yêu cầu xuyên suốt, từ pháp lý, tiêu chuẩn, đến tổ chức thực thi.

Ông Nguyễn Dư Minh – Trưởng phòng, Phòng thẩm định dự án đầu tư phát triển đô thị, Cục Phát triển Đô thị (Bộ Xây dựng) nhấn mạnh, giai đoạn 2026-2030 cần chuyển vị thế “thích ứng thụ động” sang chủ động quản trị rủi ro, với 3 trục: đánh giá rủi ro theo kịch bản khí hậu; lồng ghép giải pháp dựa vào tự nhiên (NbS) vào cấu phần kỹ thuật; và thiết lập cơ chế tài chính cho hạ tầng chống chịu.
Theo ông Nguyễn Dư Minh, các đô thị phải coi Atlas/FRMIS/SPP là điều kiện bắt buộc khi lập – thẩm định quy hoạch phân khu, quy hoạch thoát nước và dự án hạ tầng, thay vì chỉ là “phụ lục tham khảo”.
Kinh nghiệm vận hành ở Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng và Cần Thơ cho thấy, khi dữ liệu rủi ro được đưa thẳng vào quy hoạch, quyết định về cao độ nền, hành lang thoát lũ, vị trí hồ điều hòa, mạng cống chính – phụ… trở nên thực chứng và ít tranh cãi hơn.
Cần tiếp cận tổng thể: thoát nước – hồ điều hòa – vùng phân lũ

Nhìn vào “điểm nóng” miền Trung, ông Phạm Doãn Khánh (Cục Quản lý đê điều và phòng chống thiên tai (Bộ NN&MT) phác họa một bức tranh thực tế: đồng bằng hẹp, sông ngắn – dốc, dòng chảy tập trung nhanh; mạng lưới đường bộ, đường sắt và kênh mương vừa chia cắt, vừa cản trở thoát lũ; bê tông hóa làm giảm bề mặt thấm; trong khi hệ thống thoát nước đô thị xuống cấp và thiếu đầu tư duy tu.
Mặc dù vậy, dư địa cho cải thiện có nhờ cảnh báo sớm, điều tiết hồ chứa, nâng cao nhận thức cộng đồng; nhưng nút thắt dai dẳng là thiếu không gian lưu giữ nước, thiếu dữ liệu vận hành thời gian thực và đặc biệt là kỷ luật sử dụng đất như: tình trạng lấn chiếm sông hồ, san lấp ao đầm vẫn diễn ra…
Ông Phạm Doãn Khánh đề nghị tiếp cận tổng thể theo hướng: nâng cấp đồng bộ thoát nước – hồ điều hòa – vùng phân lũ; phục hồi rừng đầu nguồn và đất ngập nước; áp dụng đô thị thông minh thích ứng khí hậu với cảm biến mưa – mực nước; siết vị trí xây dựng ở vùng trũng, song hành với tiêu chuẩn vận hành – bảo trì để bảo đảm công trình “sống” được trong suốt vòng đời.

Ở bình diện xã hội – quản trị, bà Sabina Stein – Trưởng Ban Quản trị và tham gia, Chương trình Phát triển của Liên Hợp quốc tại Việt Nam (UNDP) đưa ra khuyến nghị quan trọng: đô thị chống chịu không thể thiếu tiếng nói người dân.
Theo bà Sabina Stein, dữ liệu điều tra xã hội học những năm gần đây cho thấy, nhận thức môi trường tăng, nhưng niềm tin vào trách nhiệm môi trường của doanh nghiệp và chất lượng không khí ở một số thành phố lớn lại suy giảm.
Nghiên cứu định tính tại Hà Nội của UNDP về lao động ngoài trời là những “công dân tiền tuyến” trước nắng nóng và mưa bão cho thấy sự tổn thương kép: thu nhập bấp bênh và sức khỏe bị bào mòn.
Từ đó, bà Sabina Stein khuyến nghị, thể chế hóa sự tham gia của người dân ở 3 tầng: phản hồi cộng đồng trong lập – giám sát quy hoạch; cơ chế “lắng nghe xã hội” (social listening) để thu nhận dữ liệu thời gian thực từ hiện trường; và minh bạch thông tin môi trường. Khi trải nghiệm đời sống hằng ngày trở thành dữ liệu chính sách, đô thị mới chuyển từ “xây gì” sang “vận hành ra sao để an toàn hơn”.

Dưới góc nhìn kinh tế – tài chính, ông Steven Louis Rubinyi – Chuyên gia cao cấp về quản trị rủi ro, thiên tai của Ngân hàng Thế giới, cho biết, mỗi 1 USD đầu tư sớm cho hạ tầng chống chịu có thể tiết kiệm khoảng 4 USD chi phí khắc phục, đồng thời giảm rủi ro gián đoạn chuỗi cung ứng, ổn định chi phí sản xuất và củng cố niềm tin của nhà đầu tư.
Theo ông Steven Louis Rubinyi, số liệu ước tính trên lãnh thổ Việt Nam cho thấy, thiên tai gây thiệt hại trung bình khoảng 1 – 1,5% GDP mỗi năm, trong đó ngập lụt và bão chiếm phần lớn. Khi 12 đô thị lớn nhất của Việt Nam đóng góp hơn một nửa sản lượng kinh tế, mọi cú sốc khí hậu ở các “đầu mối” này đều có thể lan truyền thành rủi ro hệ thống: từ năng lượng, giao thông, logistics tới du lịch và an sinh.
Tuy nhiên, ông Steven Louis Rubinyi cũng đưa ra minh chứng một dự án ở Cần Thơ, với cấu trúc tích hợp kiểm soát lũ – giao thông – nâng cấp đô thị và hai hệ thống số FRMIS và SPP, TP Cần Thơ đã giảm đáng kể thời gian và diện tích ngập, cải thiện khả năng tiếp cận cho hàng trăm nghìn cư dân, qua đó tăng năng suất và sức hấp dẫn đầu tư.
Đề xuất mô hình “Thành phố bọt biển”

Ở chiều giải pháp kỹ thuật, PGS.TS Nguyễn Hồng Tiến cùng ông Nguyễn Công Thành (Chương trình MCRP của GIZ) đề xuất thay đổi “triết lý cống rãnh”, từ “thoát nhanh” sang “thoát chậm – thấm tại chỗ”, trong đó cốt lõi là SUDs (hệ thống thoát nước đô thị bền vững) và mô hình “Thành phố bọt biển” (Sponge City), coi nước mưa là tài nguyên cần giữ – thấm – lưu – làm sạch – tái sử dụng rồi mới thoát.
Theo ông Nguyễn Công Thành, chuỗi thí điểm tại: Quảng Ngãi, Long Xuyên, Rạch Giá, Cà Mau và mở rộng sang Bến Tre, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Giá Rai đã ghi nhận hiệu quả: hạ đỉnh lũ đường phố, rút ngắn thời gian tụ nước, hạ nhiệt đảo nóng đô thị, cải thiện chất lượng nước mặt.
Nhóm chuyên gia cũng lưu ý 2 điều then chốt, Sponge City không thay thế hoàn toàn công trình cứng, đô thị cần đa lớp phòng thủ; và hiệu quả phụ thuộc vào chuẩn kỹ thuật – cơ chế tài chính – dữ liệu vận hành, chứ không thể là những mảnh ghép rời rạc. Vì vậy, Việt Nam cần sớm ban hành hướng dẫn kỹ thuật quốc gia về SUDs/Thành phố bọt biển, tích hợp vào Quy hoạch xây dựng và các tiêu chuẩn thiết kế, đồng thời hình thành định mức kinh tế – kỹ thuật cho vận hành – bảo trì để có cơ sở bố trí ngân sách thường xuyên, quyết toán minh bạch.
Tóm lại, Việt Nam đã có chính sách, đã có công cụ, nhưng điểm quyết định nằm ở năng lực triển khai ở địa phương, đặc biệt là: Quy hoạch dựa trên rủi ro, kỷ luật sử dụng đất đô thị, cơ chế tài chính dài hạn cho chống chịu, và tiếng nói của người dân trong giám sát và vận hành đô thị.
Khi “trả lại không gian cho nước” được coi là nguyên tắc hạ tầng, và đầu tư chống chịu được nhìn nhận là đầu tư sinh lợi, đô thị Việt Nam sẽ chuyển từ ứng phó sang chủ động – an toàn – bền vững trước BĐKH.
Thanh Nga

