
Phóng viên đã có cuộc phỏng vấn TS.KTS Nguyễn Tuấn Hải – Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội – để tìm hiểu về hướng tiếp cận vấn đề khai thác không gian ngầm đô thị từ công tác đào tạo học viên các chuyên ngành liên quan đến phát triển đô thị.
PV: Thưa TS.KTS Nguyễn Tuấn Hải, nhìn nhận tiến trình phát triển của các đô thị trên thế giới đang cho thấy, việc khai thác không gian ngầm là xu hướng không thể đảo ngược của phát triển đô thị hiện đại. Ý kiến của ông về vấn đề này?
– Với lợi thế phát triển linh hoạt, ẩn giấu hình khối và cách ly với môi trường mặt đất, không gian ngầm đã bắt đầu được thế giới chú ý từ đầu thế kỷ XX. Quá trình “tịnh tiến vào lòng đất” bắt đầu thịnh hành tại các nước châu Âu và Bắc Mỹ từ cuối thế kỷ XIX.
Đến năm 1983, không gian ngầm đã chính thức được thế giới công nhận là một loại tài nguyên.
Năm 1991, tại một hội thảo do ITA (Hiệp hội quốc tế về sử dụng không gian ngầm và hầm) tổ chức, Tuyên ngôn Tokyo đã ra đời với nội dung “Thế kỷ XXI là thế kỷ sử dụng không gian ngầm”.
Tại Đại hội ITA lần thứ 30 năm 2004 diễn ra tại Singapore, nhiều tham luận đã thống nhất coi khai thác không gian ngầm như là phương cách tốt nhất để đô thị có thể phát triển bền vững trong sự đi lên của nhân loại.
Khai thác chiều sâu lòng đất đã được thực tế minh chứng là xu hướng không thể đảo ngược của phát triển đô thị hiện đại với các lợi ích như: tiết kiệm năng lượng; nâng cao hiệu quả sử dụng mặt đất, giải quyết được vấn đề mật độ tập trung quá cao tại các khu trung tâm; nâng cao năng lực cơ sở hạ tầng, thực hiện phân lớp giao thông dễ dàng.
Bên cạnh đó, việc khai thác hiệu quả không gian ngầm còn góp phần giữ gìn cảnh quan lịch sử, văn hóa cho đô thị; tăng diện tích các khu vực xanh, cũng như giảm thiểu ô nhiễm môi trường và cải thiện sinh thái đô thị.

Ông đánh giá như thế nào về tiềm năng khai thác không gian ngầm đô thị tại Việt Nam?
– Như hầu hết các đô thị vùng Đông Nam Á, các đô thị lớn ở Việt Nam có lịch sử phát triển lâu đời và đang được mở rộng.
Quá trình đô thị hóa mạnh mẽ tại Việt Nam những năm qua đã mang lại nhiều thành tựu đáng khích lệ, nhưng chưa thoát khỏi quy luật của các nước đang phát triển đông dân cư: Trên nền hạ tầng cũ, sau khi đã “lấp đầy” hết diện tích trống trên mặt đất, các công trình mới đua nhau chiếm lĩnh chiều cao – tức là chất thêm tải dẫn đến phá vỡ cơ cấu đô thị vốn có; bước tiếp theo là mở rộng cơ học theo chiều ngang, buộc phải trải dài hạ tầng và lấn chiếm đất đai nông nghiệp, thu hẹp không gian xanh.
Việc phát triển thiếu chiều sâu như vậy rõ ràng là gây tốn phí của cải xã hội và phá vỡ cân bằng sinh thái. Trong bối cảnh ấy, tôi cho rằng, tăng cường khai thác không gian ngầm là giải pháp hữu hiệu để nâng sức tải hạ tầng lên nhiều lần mà vẫn không ảnh hưởng tới môi trường tự nhiên.
Trong bối cảnh phát triển đô thị mạnh mẽ tại nước ta, thiết lập công trình ngầm là giải pháp giúp giải quyết rất nhiều vấn đề như ùn tắc giao thông, thiếu cơ sở dịch vụ, xâm phạm di sản và biến dạng cảnh quan…
Không chỉ các đô thị lớn với mật độ dân cư cao như Hà Nội và TP. HCM mới có nhu cầu, mà các đô thị nhỏ hơn như Đà Nẵng, Hải Phòng, Vũng Tàu, Hội An, Quảng Nam và nhiều đô thị khác cũng cần tính đến việc khai thác không gian ngầm đô thị cho các vùng trung tâm mật độ cao trong hiện tại và các vùng khác trong tương lai gần.

Nhìn rõ tiềm năng như thế, như vì sao chúng ta chưa khai thác lợi thế phát triển không giam ngầm phục vụ cho phát triển đô thị tại Việt Nam những năm qua?
– Ngoài các hệ thống kỹ thuật đô thị, tại các thành phố lớn ở Việt Nam đã xuất hiện một số công trình ngầm phục vụ giao thông như hầm chui đường bộ, hầm chui bộ hành và đặc biệt là các tuyến metro cũng được lên kế hoạch, đã hoàn thành một số hoặc đang thi công.
Tiếp theo là một số không gian ngầm dịch vụ thương mại nằm trong tầng hầm công trình hoặc cụm chung cư. Chúng là tín hiệu vui chứng tỏ công cuộc khai thác không gian ngầm phục vụ phát triển đô thị nước ta đã được chú ý và dần thành hiện thực.
Tuy nhiên tôi cho rằng đến nay, số lượng được thực hiện rất ít và loại hình công trình ngầm tại Việt Nam còn khá nghèo nàn, hoàn toàn chưa tương xứng với nhu cầu và tiềm năng khai thác không gian ngầm đô thị tại Việt Nam. Các công trình đã, đang hoàn thành và các dự án đã được phê duyệt cũng bộc lộ một số bất cập. Có thể thấy ở vài khía cạnh sau:
Thứ nhất, hầu hết các công trình đã có và các dự án ngầm đang, sắp triển khai đều mang tính cục bộ. Đầu tư chỉ cho một mục đích chứ chưa có sự liên kết một cách tổng thể cho cả vùng, cả thành phố về chức năng và kết nối.
Ví dụ hệ thống hầm bộ hành qua đường hiện thiếu không gian dịch vụ kèm theo dẫn đến kém hấp dẫn, thậm chí có nơi bị bỏ hoang. Ngay cả Nhà ga trung tâm Bến Thành thuộc tuyến Metro số 1 TP.HCM đã hoàn thành nhưng đến nay vẫn chưa có diện tích dành cho dịch vụ thương mại phục vụ khách đi tàu và dân cư quanh vùng. Ngoài ra, các lối tiếp cận lên xuống công trình ngầm chưa linh hoạt, hình khối thiếu hòa nhập với bối cảnh gây mất mỹ quan đô thị và ảnh hưởng tới cuộc sống người dân.
Thứ hai, các công trình ngầm dân dụng công cộng phục vụ dân cư đã rất hiếm hoi lại gặp nhiều vấn đề.
Ví dụ như một số tổ hợp dịch vụ giải trí ngầm quy mô lớn tại Hà Nội và TP.HCM là giải pháp sử dụng hiệu quả đất đô thị, nhưng việc tập trung quá đông người sử dụng dịch vụ đang làm trầm trọng thêm tình trạng ùn tắc giao thông ở cửa khu đô thị do thiếu các lối tiếp cận ngầm từ nhiều vị trí xung quanh. Trường hợp công trình Trung tâm thương mại ngầm Sense Market Saigon tại Công viên 23/9, Quận 1, TP.HCM vốn là mô hình khai thác không gian bên dưới khoảng trống đô thị rất tốt, nhưng đã từng bị dừng hoạt động với lý do xâm phạm đất công viên cây xanh.
Thứ ba, rất ít công trình cao tầng có tầng hầm được sử dụng cho thương mại dịch vụ. Hầu hết chúng chỉ được xây dựng chủ yếu làm gara ô tô, xe máy một cách “miễn cưỡng” theo quy hoạch và chỉ đáp ứng nhu cầu nội tại của công trình, chưa đóng góp nhiều cho lợi ích chung.

Vậy theo ông, đâu là nguyên nhân của thực trạng nêu trên?
– Theo tôi thì có nhiều lí do, trong đó nhận thức một phần là nguyên nhân.
Qua nghiên cứu và kết quả các chuyến đi khảo sát tại 5 đô thị (thuộc dự án “Tăng cường thể chế và nâng cao năng lực cho phát triển đô thị ở Việt Nam” do Cục Phát triển đô thị – Bộ Xây dựng chủ trì), chúng tôi nhận thấy ngoài hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện, một phần nguyên nhân đến từ nhận thức chung. Có thể điểm qua một số vấn đề sau:
Một là, lệ thuộc vào kinh nghiệm một số thành phố nước ngoài nên trông chờ vào sự hình thành các tuyến metro như một động lực cho phát triển không gian ngầm. Từ đó thiếu chủ động xem xét các cơ hội khai thác sử dụng các loại hình không gian ngầm dân dụng khác nhau.
Hai là, thiếu thông tin dẫn đến sự e ngại của nhà đầu tư và đôi khi cả nhà quản lý về thể loại công trình nằm dưới mặt đất, như đầu tư xây dựng công trình ngầm tốn kém, khó thu hồi vốn; môi trường xa lạ, kém hấp dẫn người dân; lo sợ các nguy cơ gây mất an toàn cho công trình nằm trong lòng đất như lũ lụt, cháy nổ… Từ đó dẫn đến một thực trạng khá phổ biến là chỉ coi công trình ngầm là phương cách cuối cùng hoặc bị bắt buộc phải thực hiện.
Ba là, thiếu sự phối hợp giữa các ngành nhằm khai thác hết thế mạnh và lợi ích của không gian ngầm, dẫn đến làm giảm hiệu quả đầu tư, vừa gây tốn kém cho xã hội lẫn lãng phí tiềm năng quỹ đất ngầm.
Bốn là, thiếu các mô hình khai thác không gian ngầm, xây dựng công trình ngầm dân dụng tương thích với bối cảnh đặc thù của đô thị Việt Nam.

Phát triển không gian ngầm cần rất nhiều yếu tố, nhất là chuẩn bị về nguồn lực (cả về con người, công nghệ, vốn…). Từ giác độ của một giảng viên, theo ông chúng ta cần hướng đào tạo như thế nào để có được đội ngũ nhân lực có thể đảm đương việc thực hiện khai thác hiệu quả không gian ngầm đô thị trong thời gian tới?
– Mặc dù đã được quan tâm nhiều hơn, tuy nhiên tôi cho rằng, việc sử dụng không gian ngầm còn khá xa lạ với xã hội Việt Nam, ngay cả trong công tác đào tạo cũng vậy.
Khảo sát cho thấy, tại các cơ sở đào tạo lớn ngành Xây dựng như các trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, Đại học Kiến trúc TP.HCM, Đại học Xây dựng Hà Nội, hiện nay chưa có môn học về quy hoạch không gian ngầm, kiến trúc công trình ngầm trong chương trình đào tạo, chưa nói đến việc mở ra chuyên ngành riêng như một số nước.
Tinh thần của đào tạo đại học là “tự học”. Như vậy, ngoài những kỹ năng, kiến thức áp dụng ngay, nhiều kiến thức cần được giới thiệu cho học viên biết đến để nếu cần, họ có thể nghiên cứu sâu hơn.
Mặt khác, khai thác không gian ngầm đô thị là thông tin nên được đề cập đến trong chương trình đào tạo các chuyên ngành. Học viên các ngành liên quan đến phát triển đô thị rất cần được trang bị những kiến thức cơ sở về khai thác không gian ngầm như một nhận thức khởi đầu trong lĩnh vực này.
Tất nhiên, tôi cho rằng tùy mỗi ngành mà nó là môn học (lý thuyết và/hoặc đồ án) hoặc chỉ là chuyên đề, nội dung có thể bao gồm:
Thứ nhất là về khối kiến thức chung. Ngoài những giới thiệu mang tính tổng quan như quá trình và thành tựu khai thác không gian ngầm đô thị của nhân loại, học viên sẽ được cung cấp những thông tin cơ bản như:
– Đặc tính của không gian – công trình ngầm. Từ đó cân nhắc nhằm phát huy lợi thế và khắc chế nhược điểm của thể loại không gian – công trình nằm trong lòng đất.
– Những bài học kinh nghiệm trong thực tiễn và các nghiên cứu quản lý xây dựng công trình ngầm, bao gồm: Các cấp độ nông sâu trong khai thác không gian ngầm; hiệu quả kinh tế trong đầu tư công trình ngầm; quyền sử dụng lòng đất với vấn đề tổ chức không gian và giá thành xây dựng công trình ngầm; nhất thể hóa không gian ngầm dân dụng; quy hoạch kết nối không gian ngầm với các công trình đầu mối hạ tầng giao thông, công trình dân dụng khác; chính sách, quản lý phát triển không gian ngầm…
– Xu hướng tổ chức không gian ngầm dân dụng hiện nay như: Phát triển hướng đến bền vững trong mục đích sử dụng; mở rộng phạm vi chức năng; nhất thể hóa không gian ngầm dân dụng; tận dụng lợi thế của không gian ngầm dân dụng trong chỉnh trang đô thị…
– Các giải pháp, tiêu chuẩn thiết kế và các tiến bộ kỹ thuật trong xây dựng, trang thiết bị, vận hành công trình ngầm. Ví dụ như công nghệ và vật liệu mới cho hệ thống kỹ thuật, trang thiết bị trong không gian ngầm dân dụng; hệ thống kiểm soát an ninh; giao thông kết nối công trình ngầm…
Thứ hai là những nghiên cứu, đề xuất khai thác không gian ngầm và đầu tư, quản lý xây dựng công trình ngầm đô thị thích hợp với hoàn cảnh đặc thù Việt Nam, ví dụ như các nghiên cứu về:
– Nhận biết tính đặc thù của đô thị Việt Nam tác động đến định hướng khai thác không gian ngầm nước ta.
– Đặc điểm lớn nhất của các thành phố nước ta là mở rộng trên cơ sở đô thị cổ và hướng tâm. Vì thế, cần tìm kiếm những mô hình khai thác không gian ngầm có tính toàn diện hơn, phù hợp với hình thái đặc thù của đô thị Việt Nam…
– Khai thác toàn diện dựa trên lợi thế của không gian ngầm.
Cuối cùng, tôi cho rằng, sự phát triển vượt bậc của đô thị Việt Nam không thể tách rời việc khai thác không gian ngầm như một phương cách tận dụng tài nguyên và hướng tới phát triển đô thị văn minh, hiện đại nhưng bền vững.
Trong đó, nhận thức là một quá trình. Ngoài truyền thông xã hội, cần sớm trang bị kiến thức tới học viên các ngành liên quan như Quản lý đô thị, Giao thông, Quy hoạch, Kiến trúc, Xây dựng. Bởi họ sẽ trở thành nhà thiết kế, nhà tư vấn, nhà quản lý, nhà đầu tư và cao hơn là nhà hoạch định chính sách – lực lượng kiến thiết đô thị nước nhà trong tương lai.
Trân trọng cám ơn ông!
Tuấn Đông