Ashui.com

Friday
Mar 29th
Home Chuyên mục Quy hoạch đô thị Tích hợp quy hoạch xây dựng, đô thị vào Quy hoạch tổng thể quốc gia

Tích hợp quy hoạch xây dựng, đô thị vào Quy hoạch tổng thể quốc gia

Viết email In

Ngày 7/9, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh đã chủ trì Hội nghị thẩm định các Hợp phần quy hoạch thuộc lĩnh vực xây dựng, phát triển đô thị tích hợp vào Quy hoạch tổng thể quốc gia.


Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh chủ trì Hội nghị thẩm định các Hợp phần quy hoạch thuộc lĩnh vực xây dựng, phát triển đô thị tích hợp vào Quy hoạch tổng thể quốc gia.

Tốc độ đô thị hóa nhanh, nhưng không đồng đều

Mở đầu Hội nghị, đại diện Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn quốc gia đã trình bày Báo cáo tóm tắt nội dung Hợp phần “Thực trạng và phương hướng phát triển hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050”.

Hiện nay, hệ thống đô thị Việt Nam được phân thành 6 loại dựa vào số dân và một số chỉ số về đặc điểm đô thị khác, bao gồm loại đặc biệt, loại I, loại II, loại III, loại IV, loại V. Các đô thị chính của Việt Nam đều thuộc loại IV trở lên. Tính đến tháng 12/2020, cả nước có 826 đô thị, trong đó có 2 đô thị loại đặc biệt (Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) và 22 đô thị loại I.

Phân bố dân cư và dân cư đô thị không đồng đều giữa các vùng. Theo kết quả Tổng điều tra năm 2020, dân số thành thị chiếm 36,8% tổng dân số cả nước và dân số nông thôn chiếm 65,6%. Tỷ lệ dân số sống ở khu vực thành thị của Việt Nam đã tăng lên, nhưng vẫn ở mức thấp so với các nước trong khu vực Đông Nam Á.

Cũng theo số liệu của tổng điều tra tháng 7/2020, khu vực nông thôn có khoảng 8.297 xã với dân số khoảng 61,65 triệu người, chiếm hơn 60% dân số cả nước. Theo thời gian, số xã, thôn giảm do ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa, tách chuyển một số địa bàn nông thôn sang khu vực đô thị. Tính đến năm 2020, cả nước có 8 tỉnh, thành phố có 100% số xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Do chiếm tỷ trọng diện tích và dân số lớn so với toàn quốc nên khu vực nông thôn có vai trò rất quan trọng về các mặt tự nhiên, kinh tế, xã hội.

Tốc độ đô thị hóa nhanh đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Hệ thống đô thị tăng nhanh về số lượng, hình thành hai vùng đô thị lớn có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng cùng với các chuỗi, chùm đô thị phân bố rộng khắp các vùng, miền. Hạ tầng kỹ thuật đô thị và hạ tầng xã hội được quan tâm đầu tư, tăng quy mô và cải thiện chất lượng phục vụ. Chất lượng sống tại đô thị từng bước được nâng cao, tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ hộ nghèo ngày càng giảm; sự phát triển của một số đô thị đã tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn.

Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa không đồng đều giữa các vùng, miền; tỷ lệ đô thị hóa không đạt mục tiêu đề ra, còn thấp so với mức trung bình tại các nước trong khu vực và thế giới, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

5 bước đột phá phát triển hệ thống đô thị - nông thôn

Theo dự báo của Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn quốc gia, dân số nước ta đến năm 2030 sẽ đạt khoảng 105 triệu người, bao gồm 50 triệu dân số đô thị. Trong giai đoạn 2020 – 2030, cả nước sẽ có thêm 19 đô thị loại I.

Hợp phần quy hoạch tích hợp đặt mục tiêu thúc đẩy quá trình đô thị hóa nhanh, hiệu quả, có chất lượng; bền vững hơn về môi trường, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng, đảm bảo được an ninh lương thực, tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh, đổi mới mô hình phát triển hệ thống đô thị Việt nam theo mô hình mạng lưới, xanh, thông minh và bền vững.

Đến năm 2025, tỷ lệ đô thị hóa đạt tối thiểu 45%, kinh tế đô thị đạt khoảng 75% GDP, 35% các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tự chủ về tài chính. Đến năm 2030, tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50% và phấn đấu đạt mức trung bình ASEAN, kinh tế đô thị đạt khoảng 85% GDP cả nước; tỷ lệ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tự chủ về tài chính đạt trên 60%. Đến năm 2045, Việt Nam phấn đấu có tỷ lệ đô thị hóa thuộc nhóm trung bình cao của khu vực ASEAN và châu Á, xây dựng được 3-5 đô thị tầm quốc tế.

Để hoàn thành các mục tiêu kể trên, Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn quốc gia có đề ra 5 bước đột phá để phát triển hệ thống đô thị - nông thôn. Một là, tái tổ chức không gian lãnh thổ tăng trưởng đô thị hóa nhanh, bền vững, từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đô thị Việt Nam phát triển theo mô hình cấu trúc mạng lưới đô thị, trở thành các cực tăng trưởng kinh tế đô thị. Hai là, đô thị hóa tích hợp phát triển và bảo tồn toàn diện tài nguyên thiên nhiên, quản lý tài nguyên nước, tối ưu hóa sử dụng năng lượng, thúc đẩy đô thị tăng trưởng xanh và thích ứng với biến đổi khí hậu. Ba là, đô thị hóa phù hợp với quy luật kinh tế thị trường, phát triển các vùng đô thị hóa, phát triển thị trường bất động sản. Bốn là, đô thị hóa đảm bảo công bằng xã hội và gìn giữ bản sắc văn hóa, kiến trúc cảnh quan đô thị - nông thôn. Năm là quản trị đô thị - nông thôn, cải cách và hoàn thiện thể chế phát triển đô thị - nông thôn.


Bản đồ các cực và hành lang đô thị hóa quốc gia trong phương hướng phát triển hệ thống đô thị - nông thôn quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Về phương hướng phát triển hệ thống đô thị - nông thôn, khung phát triển đô thị - nông thôn quốc gia sẽ được cấu thành bởi mạng lưới đô thị - nông thôn, các cực và hành lang đô thị quốc gia. Mạng lưới đô thị - nông thôn được phân bổ hợp lý trên 6 vùng kinh tế - xã hội, hai vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam bộ có mức độ đô thị hóa cao.

Theo đơn vị tư vấn, mạng lưới đô thị - nông thôn quốc gia có thể được phân chia thành mạng lưới không gian hành chính đô thị - nông thôn, mạng lưới không gian theo phân loại đô thị, mạng lưới phân bố đô thị trung tâm cấp quốc gia, mạng lưới phân bố đô thị trung tâm cấp vùng, mạng lưới phân bố đô thị chức năng quốc gia, mạng lưới đô thị - nông thôn biển.

Cũng tại Hội nghị, đại diện Viện Vật liệu xây dựng đã trình bày báo cáo tóm tắt Hợp phần quy hoạch “Thực trạng và phương hướng thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng quốc gia giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050”.

Theo đó, Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản làm vật liệu xây dựng phong phú với trên 1.500 mỏ và điểm mỏ có thể đáp ứng nhu cầu phát triển ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng trong thời gian lâu dài. Sản lượng khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng ở nước ta không ngừng tăng, từ năm 2006 đến năm 2018, sản lượng khai thác, chế biến tăng gấp 4 lần. Khối lượng khoáng sản đã khai thác và chế biến về cơ bản đáp ứng nhu cầu cho sản xuất vật liệu xây dựng và xây dựng cơ bản phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Đảm bảo tính thống nhất và chất lượng quy hoạch

Tại Hội nghị, các thành viên Hội đồng thẩm định đã lần lượt đóng góp ý kiến cho 2 dự thảo hợp phần quy hoạch tích hợp.

Đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị đơn vị tư vấn rà soát, làm rõ một số nội dung liên quan đến các hàng lang kinh tế, các vùng động lực tương thích với các vùng quy hoạch đô thị, lồng ghép các vùng đô thị lớn và các vùng kinh tế - xã hội giao thoa, quy hoạch các vùng sản xuất công nghiệp sinh thái, phát triển công nghiệp ở vùng ven đô.

Đại diện Vụ Quy hoạch Kiến trúc, Bộ Xây dựng đề nghị làm rõ các nội dung đánh giá thực trạng đô thị - nông thôn quốc gia, đề xuất các phương án lựa chọn khung đô thị - quốc gia, căn cứ pháp lý xác định 4 vùng động lực và đô thị hóa, đề xuất các hành lang kinh tế, hàng lang giao thông quốc gia, làm rõ nét các hệ thống đô thị đặc biệt, có bản sắc và giá trị văn hóa, bổ sung nội dung kinh tế đô thị, phát triển nhà ở và thị trường bất động sản.

Đại diện Cục Phát triển đô thị, Bộ Xây dựng lưu ý các bản đồ trong quy hoạch thiếu đô thị Hoàng Sa, Trường Sa, làm rõ nội dung đánh giá hiện trạng, xem xét lại thời gian đô thị Khánh Hòa trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, rà soát nội dung biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, phát triển đô thị thông minh và liên kết mạng lưới đô thị.

Cục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng lưu ý vấn đề thống nhất căn cứ pháp lý của quy hoạch và làm rõ thực trạng hạ tầng đô thị, đặc biệt là nội dung quy hoạch nghĩa trang đô thị. Cục Quản lý nhà và thị trường bất động sản Bộ Xây dựng lưu ý mối quan hệ của đô thị và nông thôn hiện tại, bổ sung nội dung về nông thôn.

Đối với hợp phần “Thực trạng và phương hướng thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng quốc gia giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050”, đại diện Vụ Vật liệu xây dựng Bộ Xây dựng đánh giá nội dung hiện trạng cơ bản đầy đủ, nhưng cần bổ sung và chỉnh sửa hầu hết bản đồ chưa phù hợp. Đại diện Cục Phát triển đô thị Bộ Xây dựng đề nghị bổ sung nội dung khuyến khích phát triển vật liệu xanh. Đại điện Viện Chiến lược phát triển Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị bổ sung nội dung chế biến khoáng sản và các số liệu trong báo cáo.

Kết luận Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh khẳng định, việc tích hợp 2 hợp phần quy hoạch thuộc lĩnh vực xây dựng, phát triển đô thị vào Quy hoạch tổng thể quốc gia là rất quan trọng. Do đó, các quy hoạch phải đảm bảo tính thống nhất và đặt chất lượng lên hàng đầu.

Thứ trưởng đề nghị đơn vị tư vấn rà soát kỹ các căn cứ chính trị, căn cứ pháp lý như Nghị định, Nghị quyết và các Nhiệm vụ quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Về kết cấu của báo cáo, đơn vị tư vấn phải bổ sung đánh giá thực trạng quy hoạch đã có, dân cư nông thôn… từ đó nhận diện các hạn chế và đề xuất các nhiệm vụ cần thực hiện trong thời gian tới. Ngoài ra, báo cáo cũng phải bổ sung nội dung kinh nghiệm quốc tế và tổ chức thực hiện.

Thứ trưởng Nguyễn Văn Sinh đề nghị đơn vị tư vấn nghiêm túc tiếp thu các ý kiến đóng góp, nhanh chóng hoàn thiện báo cáo gửi Viện Chiến lược phát triển xem xét càng sớm càng tốt.

Dịch Phong

(Báo Xây dựng)


Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

 

Thêm bình luận


Mã an toàn
Đổi mã khác

Bảng quảng cáo