Báo cáo Cảnh quan đô thị Đông Á, đánh giá một thập kỷ phát triển không gian vừa được Ngân hàng Thế giới (WB) công bố cho thấy, Việt Nam đang đô thị hóa nhanh chóng, cả về không gian và dân số.
Cảnh quan đô thị 10 năm qua bị chi phối bởi hai khu vực đô thị lớn là Hà Nội và TP.HCM, hai khu vực đô thị này mở rộng thêm rất nhiều nhưng vẫn rất chật chội.
TP. HCM đông dân nhất cả nước nhưng đang có xu hướng giảm mật độ dân số đô thị.
Để thực hiện báo cáo trên, các chuyên gia trong lĩnh vực phát triển đô thị của WB đã thực hiện khảo sát, nghiên cứu đánh giá tốc độ phát triển không gian và quy mô dân số tại 869 khu vực đô thị trên 100.000 dân cửa khu vực Đông Á trong 10 năm (2000 - 2010).
WB cho rằng, trong thập kỷ 2000 - 2010, quy mô diện tích đô thị Việt Nam tăng lên nhanh chóng, từ vị trí thứ 7 trong khu vực (2000) với 2.200 km2 lên vị trí thứ 5 khu vực (2010) với tổng diện tích đô thị đạt 2.900 km2. Mức tăng 700 km2 này đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia tăng diện tích đô thị lớn nhất trong khu vực. Về không gian, các khu đô thị của Việt Nam tăng 2.8%/ năm, nằm trong số các nước có tỉ lệ tăng nhanh nhất khu vực.
Về số dân đô thị, Việt Nam có dân số đô thị lớn thứ sáu trong khu vực Đông Á, khoảng 23 triệu người. Trong giai đoạn 2000 - 2010, dân số đô thị Việt Nam tăng 7,5 triệu người. Tỉ lệ tăng dân số đô thị bình quân đạt 4,1%/năm, đây cũng là tỉ lệ cao trong khu vực chỉ thấp hơn Lào và Campuchia. Trong giai đoạn (2000 - 2010), dân số đô thị của Việt nam thay đổi từ 19% sống tại thành thị (khu vực đô thị có từ 100.000 người trở lên) lên 26%.
Mật độ dân số đô thị tại Việt Nam đạt khoảng 7.700 người/km2 năm 2010, xu hướng các khu đô thị của Việt Nam ngày càng trở nên chật chội hơn so với toàn khu vực, mặc dù chưa bằng Indonesia, Hàn Quốc hoặc Philippines. Mật độ dân số đô thị trung bình Việt Nam đã tăng lên khoảng 1000 người/km2 trong 10 năm qua.
Các đô thị tại Việt Nam tăng nhanh nhất khu vực Đông Á cả về không gian và số dân.
Một đặc điểm của mạng lưới đô thị Việt Nam cũng được WB nêu ra trong báo cáo tình hình phát triển đô thị khu vực, đó là Việt Nam hiện chưa có đô thị cực lớn với quy mô trên 10 triệu dân. Hai khu vực đô thị lớn nhất của Việt Nam hiện nay là TP.HCM (7,8 triệu người) và Hà Nội (5,6 triệu người). Hai thành phố này chi phối cảnh quan đô thị của quốc gia về cả không gian đô thị và dân số. Bên cạnh đó, Việt Nam còn một đô thị có số dân trong khoảng 1 - 5 triệu người, 6 đô thị trong khoảng 500.000 – 1 triệu người và 21 đô thị trong khoảng 100.000 – 500.000 người.
WB dự báo, nếu cứ tiếp tục tăng với tốc độ hiện nay, đến năm 2020 cả hai khu vực đô thị Hà Nội và TP.HCM sẽ lớn gấp đôi về diện tích và dân số so với năm 2000. Hai khu đô thị này hiện đang duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh hơn nhiều so với các đô thị khác của Việt Nam.
Về không gian đô thị, năm 2010 khu vực đô thị Hà Nội có diện tích đô thị khoảng 850 km2, TP.HCM có diện tích 810 km2, cả khu vực hai đô thị này đều mở rộng thêm 270 km2 trong giai đoạn 2000 – 2010. Tốc độ mở rộng này lớn hơn bất cứ khu vực đô thị nào khác trong khu vực. Hơn 50% tổng diện tích đất đô thị tại Việt Nam nằm tại hai khu vực đô thị này, khoảng cách giữa hai đô thị này với các khu đô thị khác của Việt Nam đang ngày càng mở rộng.
Báo cáo của WB cũng nhấn mạnh, hầu hết các khu đô thị trong nước đã trở nên dày đặc hơn trong 10 năm qua, chỉ có một ngoại lệ đáng lưu ý là TP.HCM, nơi đông dân nhất nhưng lại giảm chút ít về mật độ dân số trong giai đoạn 2000 - 2010. Mặc dù con số tuyệt đối thì số dân khu vực đô thị TP.HCM tăng lên 2,5 triệu người (3,9% hàng năm). Mức tăng dân số Hà Nội cùng kỳ vẫn thấp hơn TP.HCM, tăng thêm 2,1 triệu người trong giai đoạn này (4,8% hàng năm).
Về không gian đô thị, trong số khoảng 820 km2 tổng diện tích đô thị khu vực TP.HCM chỉ có khoảng 53% là thuộc phạm vi địa giới hành chính của thành phố, 23% ở Bình Dương, 18% ở Đồng Nai. Điều đáng nói khoảng 70% diện tích đô thị mở rộng (2000 - 2010) nằm ngoài TP.HCM, hầu hết diện tích này ở Bình Dương (42%).
Việt Nam chưa có thành phố nào có quy mô 10 triệu dân.
Mô hình phát triển không gian khu vực đô thị Hà Nội có nhiều khác biệt so với TP.HCM. Hà Nội nằm trong khu vực Đồng bằng Sông Hồng, đặc trưng bởi hàng trăm khu dân cư nằm rải rác, bao gồm các thị trấn nhỏ, tương phản với hầu hết các cụm dân cư đồng nhất của TP.HCM. Quá trình phát triển mới xung quanh Hà Nội cũng phân tán tương tự, mặc dù từ năm 2000 đến nay các khu dân cư nằm rải rác đã kết nối vào các hành lang dọc theo đường quốc lộ, như theo tuyến Đông Bắc từ trung tâm Hà Nội qua Bắc Ninh và đến phía đông theo hướng Hải Dương.
Những nơi mật độ dân cư đô thị tăng nhanh nhất khu vực Hà Nội là những quận nội đô lâu đời như Đống Đa, Hai Bà Trưng và Hoàn Kiếm, với mật độ dân cư trên 40.000 người/km2. Cả hai quận Đống Đa và Hai Ba Trưng đều tăng thêm 100.000 người mỗi quận trong khi trên thực tế diện tích xây dựng không hề tăng thêm. Vì vậy, mặc dù Hà Nội có thể đang mở rộng nhanh chóng, trung tâm thành phố vốn đã rất đông người vẫn sẽ tiếp tục đông hơn.
Đức Tuân (Báo Xây dựng)
- Đề xuất quy hoạch “cắt lớp” - phát triển bền vững đô thị TPHCM
- Công thức kiến tạo một thành phố đẹp
- Đô thị phát triển thông minh
- Nam Định: Đô thị động lực nam sông Hồng
- Xây dựng khu đô thị đáng sống trong quy hoạch cải tạo chung cư cũ
- TPHCM: Dân số có thể trên 10 triệu người vào năm 2020
- Cách tiếp cận mới trong phát triển đô thị
- Xây dựng đô thị tăng trưởng xanh: Bước đi tất yếu tới tương lai
- Đô thị hóa ở Nam bộ: Thực tiễn và thách thức
- Lấp “lỗ hổng” chất lượng quy hoạch: Tiết kiệm lớn cho ngân sách