Từ 22 đến 24-7 tại Quảng Ngãi sẽ diễn ra Hội thảo khoa học quốc tế “100 năm phát hiện và nghiên cứu Văn hoá Sa Huỳnh”. Chúng tôi xin giới thiệu sau đây bài viết nhân sự kiện này.
Hằng số chung địa - văn hoá của miền Trung, là con người sinh tồn trên dải đất hẹp được bao bọc bởi biển cả và núi non. Nơi đây địa hình có đặc trưng chung về độ cao chuyển dần từ vùng núi xuống đồi gò trung du đến đồng bằng phía trong dải cồn cát ven biển và ra đến đảo gần bờ. Trên mỗi dạng điạ hình khác nhau con người sinh sống và ứng xử thích hợp nhuần nhị tạo dựng nên các sắc thái văn hoá đa dạng, trong đó sắc thái văn hóa biển khá nổi bật chiếm vị trí quan trọng xuyên suốt.
Theo tiến sĩ khảo cổ học Đoàn Ngọc Khôi - người đã có nhiều năm lăn lộn nghiên cứu, khai quật nhiều di tích cổ trên địa bàn Quảng Ngãi xác định: Trong thời đại kim khí con người đã tiến dần từ vùng thung lũng núi, đồi gò trung du xuống đồng bằng ven biển. Những bằng chứng khảo cổ học về phát hiện ở vùng thượng nguồn phía bắc sông Trà Khúc các dấu tích của cư dân hậu kỳ đá mới qua địa điểm khảo cổ Trà Phong. Bộ sưu tập công cụ Trà Phong có loại cuốc, rìu có vai, bàn mài, khuyên tai được chế tác từ loại đá lửa rất cứng. Ngoài ra, các nhà khảo cổ còn tìm thấy những di tích cùng tính chất văn hoá với Trà Phong như Gò Nà, Vườn Chì phân bố ở vùng đồi thấp về phía đông gần biển. Bộ sưu tập di vật Trà Phong rất gần gũi với bộ sưu tập di vật đồ đá mới của văn hóa Biển Hồ. Các bằng chứng khảo cổ này đem lại nhận thức về dòng người - dòng văn hoá ở thời điểm hậu kỳ đá mới từ vùng Tây Nguyên vượt qua rẻo cao Trường Sơn tiến dần về đồng bằng ven biển chiếm lĩnh, khai phá và tạo dựng nên nền văn hoá nổi tiếng trong thời đại kim khí - văn hoá Sa Huỳnh - trên cơ sở giao lưu hội nhập với các dòng chảy văn hoá khác từ phía bắc xuống, từ phía nam ra và từ phía biển Đông vào.
Có thể nói, Văn hoá Sa Huỳnh là một trong ba trung tâm văn hoá lớn thời đại kim khí ở Việt Nam. Văn hoá Sa Huỳnh với sự phát triển đỉnh cao sơ kỳ sắt được hợp thành bởi các dòng chảy tiền Sa Huỳnh sơ kỳ đồng thau trước đó. Nói đến văn hóa Sa Huỳnh là đề cập đến nền văn hóa vật chất của cư dân Sa Huỳnh luôn gắn liền với biển. Mặc dù vẫn có các điểm di tích Sa Huỳnh ở vùng núi nhưng khá ít trong khi đó dọc theo các cồn cát ven biển và đảo gần bờ có sự bùng nổ vê số lượng các di tích văn hóa Sa Huỳnh (ở đây bao gồm các di tích tiền Sa Huỳnh – thời đại đồng thau và các di tích Sa Huỳnh sơ kỳ sắt).
Cảnh quan chung của các di tích tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh dọc ven biển miền Trung ví như Long Thạnh, Bình Châu I, Bình Châu II, Phú Khương, Thạnh Đức, Gò Quê (Quảng Ngãi), Cồn Ràng (Huế), các điểm Sa Huỳnh ở Hội An, Bàu Trám (Quảng Nam), Tăng Long (Bình Định), Gò Ốc (Phú Yên), Xóm Cồn, Hòa Diêm (Khánh Hòa), Bàu Hòe (Ninh Thuận)… hầu như phân bố trên các dải cồn cát ven biển, gần đầm nước ngọt, sát cạnh cửa sông ra biển, nơi tụ cư của cư dân Sa Huỳnh lâu dài với tầng văn hóa dày. Gắn liền với khu cư trú là những nghĩa địa lớn của người Sa Huỳnh như Gò Quê, Phú Khương, Thạnh Đức (Quảng Ngãi), Tăng Long (Bình Định), Cồn Ràng (Huế), Hậu Xá, Đại Lộc (Quảng Nam)… Không những cư trú ven biển, gắn với cửa sông ra biển mà người Sa Huỳnh còn vượt biển đi ra chiếm lĩnh các đảo gần bờ. Bằng chứng trên các đảo Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Cù Lao Ré (Quảng Ngãi), các đảo vịnh Nha Trang (Khánh Hoà) đều tìm thấy các di tích văn hoá Sa Huỳnh. Như vậy không gian văn hoá Sa Huỳnh mở rộng từ vùng Quảng Bình – nơi tiếp xúc với văn hoá Đông Sơn kéo dài đến vùng Ninh Thuận, Bình Thuận- nơi tiếp xúc với văn hoá thời đại kim khí Đông Nam Bộ; đồng thời còn mở rộng không gian từ vùng trung du miền núi đến các đảo gần bờ. Nhưng trên dải đất miền Trung, tính hướng biển vẫn là điểm quan trọng cơ bản xuyên suốt trong truyền thống văn hoá của cư dân Sa Huỳnh.
- Di chỉ làng Thanh, xã Phổ Thạnh - Đức Phổ khai quật năm 1978.
Nét nổi bật, cuộc sống của người Sa Huỳnh gắn bó hoà quyện với biển, (biển giữ vị trí chính yếu trong đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của họ). Trong các di tích tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh ở Quảng Ngãi tìm thấy khá nhiều bằng chứng về hoạt động khai thác biển của họ. Quá trình phát hiện, khai quật các di tích cho thấy tầng văn hoá Bình Châu II tìm thấy các hố rác bếp chứa nhiều vỏ sò ốc có nguồn gốc khai thác từ biển. Tầng văn hoá Xóm Ốc, Suối Chình (đảo Lý Sơn) cấu tạo bởi các loại vỏ nhuyễn thể ken dày với gốm do cư dân cổ sử dụng và bỏ lại, ở đây tìm thấy khá nhiều hố rác bếp chứa các loại vỏ ốc, sò, xương cá biển.
Bộ sưu tập di vật phản ánh hoạt động khai thác biển của người Sa Huỳnh, ví như tại địa điểm Long Thạnh tìm thấy lưỡi câu xương; địa điểm Bình Châu I tìm thấy lưỡi câu đồng, lao đồng; địa điểm Xóm Ốc tìm thấy lưỡi câu đồng trong mộ táng. Truyền thống khai thác biển của người Sa Huỳnh còn được thể hiện qua lối sử dụng nguyên liệu từ vỏ nhuyễn thể để chế tác công cụ và đồ trang sức. Cư dân văn hoá Sa Huỳnh trên đảo Lý Sơn sử dụng vỏ tai tượng (tridacna) và nắp ốc cừ (turbo) để chế tác công cụ ghè đập.
Quan hệ của văn hóa Sa Huỳnh với vùng hải đảo Thái Bình Dương khu vực Đông Nam Á là mối quan hệ giao lưu trong môi trường biển gắn liền với dòng hải lưu đen (Black current) mà W.G Solheim II đưa ra . Thiên nhiên ưu đãi vùng đất cư trú của người Sa Huỳnh có đường bờ biển kéo dài và có những cửa sông để đi ra biển thuận tiện, cho nên người Sa Huỳnh đã vươn ra biển buôn bán trao đổi với bên ngoài. Đồng thời ngược lại những luồng thương mại trên biển cũng dễ dàng xâm nhập vào xã hội Sa Huỳnh qua hệ thống các cửa biển. Buôn bán là con đường dẫn đến giao tiếp văn hóa, hòa đồng nhân chủng, ngôn ngữ. Trong khu vực Đông Nam Á, sự trao đổi buôn bán giữ vị trí quan trọng, phân tích vai trò của nó, Hutterer, nhà khảo cổ học người Mỹ, đã cho rằng “...Hoạt động buôn bán đóng vai trò lớn trong sự tiến triển văn hóa ở Đông Nam á và làm động lực gián tiếp để biến đổi văn hóa”. Trung tâm Sa Huỳnh có sự giao lưu rộng với các nơi trong khu vực thể hiện qua những khuyên tai ba mấu nhọn, khuyên tai hai đầu thú ... là những hiện vật đặc trưng của Sa Huỳnh tìm thấy ở vùng phân bố của văn hóa Đông Sơn, ở Thái Lan, ở vùng hải đảo Đông Nam Á... Trong các mộ chum Sa Huỳnh có các hiện vật trang sức bằng đá mã não và các loại đá quý khác đều có nguồn gốc từ vùng Trung á. Các loại gương đồng Hán tìm thấy ở vùng trung du Nghĩa Hành (Quảng Ngãi), Bình Yên (Quảng Nam)... cùng với tiền đồng Ngũ Thù Hán tìm thấy ở Xóm ốc (Quảng Ngãi) và các di tích Sa Huỳnh ở Hội An... chúng đều có nguồn gốc giao lưu trao đổi với Trung Hoa. Đặc biệt quan hệ giao lưu giữa Sa Huỳnh và các đảo ở Thái bình Dương rất mật thiết. Ví như trong mối quan hệ so sánh đồ gốm Sa Huỳnh và đồ gốm Kalanay (Philippin); đồ gốm Tabon (Indonesia) khá giống nhau ở kiểu dáng, phong cách trang trí, khiến cho W.G. SolheimII đưa ra khái niệm "Truyền thống Sa Huỳnh-Kalanay" (Sahuynh- Kalanay Tradition).
- Di cốt (song táng) di chỉ Xóm Ốc-Lý Sơn khai quật năm 1997.
Người Sa Huỳnh có óc thẩm mỹ cao, biểu hiện rõ nét nhất đó là nghệ thuật tạo dáng và trang trí trên gốm. Trong các di tích tiền Sa Hùynh sơ kỳ đồng thau đồ gốm được tạo tác như một tác phẩm nghệ thuật. Nếu như đồ gốm Bình Châu nổi bật với phong cách tạo dáng gãy gấp khúc mạnh mẽ ở các điểm chuyển tiếp thuộc miệng, eo cổ, vai; đồng thời luôn tạo sự tương phản mạnh về màu sắc giữa màu áo gốm đỏ tươi làm nền nổi bật các dải băng chì trên thân đồ gốm; thì trong khi đó đồ gốm Long Thạnh luôn chú ý đến yếu tố tạo dáng cân phân theo tỉ lệ cân xứng ở ba phần miệng - thân và chân đế; các điểm chuyển tiếp trên thân đồ đựng luôn cong lượn. Trang trí trên bình lọ hoa gốm là sự tổng hợp của các loại văn thừng mịn, văn in chấm que, văn in chấm vỏ sò, văn vạch, văn ấn răng cưa kết hợp với đắp nổi tạo gờ... để tạo nên nhiều đồ án khác nhau như đồ án chữ S, đồ án tam giác, hình kỷ hà gấp khúc... Các đồ án này được làm nổi bật bằng nghệ thuật tô chì graphít lồng bên trong tương phản với nền áo gốm tô đỏ. Trên nắp đậy chum tạo dáng như hình lồng bàn úp, trên đó được trang trí các đồ án chữ S, kỷ hà được tô chì nổi bật trên nền tô đỏ. Đồ án chữ S ngược luôn là chủ đề trang trí nổi bật trên gốm tiền Sa Huỳnh, ngôn ngữ của nghệ thuật biểu hiện ở đây là các trạng thái của sóng biển từ hiền hoà đến hung dữ (10). Đặc trưng tính biển của đồ gốm tiền sử vùng duyên hải và các đảo trong lòng chảo Thái Bình Dương là kỹ thuật in chấm vỏ sò. Trong đồ gốm tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh tỉ lệ in chấm vỏ sò chiếm vị trí thứ hai sau kỹ thuật văn thừng. Đồ án hoa văn in chấm vỏ sò thể hiện khá phong phú trên đồ gốm văn hoá Sa Huỳnh ở Phú Khương, Tăng Long, Gò ốc, Xóm ốc. Người Sa Huỳnh sử dụng vỏ sò ở phần mép và gai vỏ sò để tạo nên các đồ án hoa văn rất đẹp và mang đậm tính biển.
Vốn là cư dân sinh sống chủ yếu ven duyên hải miền Trung, có thể người Sa Huỳnh đã biết đến nghề muối. Yếu tố muối đóng vai trò như thế nào trong quá trình giao lưu văn hoá giữa đồng bằng duyên hải miền Trung với khu vực Tây Nguyên trong thời đại kim khí tiền Sa Huỳnh, Sa Huỳnh. Đây là câu hỏi lớn đặt ra cho khảo cổ học, tuy nhiên đáng chú ý các di tích văn hoá Sa Huỳnh quan trọng thường phân bố liền kề với các đồng muối cổ, ví như di tích Sa Huỳnh, Phú Khương, Long Thạnh gắn với đồng muối Tân Diêm; di tích Bình Châu gắn với đồng muối Diêm Điền; di tích Gò Quê gắn với đồng muối cổ Tuyết Diêm. Như vậy biển đóng vai trò quan trọng trong đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của cư dân văn hoá Sa huỳnh. Biển đem lại cho người Sa Huỳnh nguồn lợi thuỷ sản, muối biển; biển rộng mở những con đường giao lưu với bên ngoài; biển đem lại cho người Sa Huỳnh cảm hứng trong sáng tạo.
Minh Trí, Khôi Ngọc (Quảng Ngãi)
- Cần có chuẩn sinh thái trong quy hoạch đô thị
- Kiến trúc nào cho các ô phố dọc đại lộ đông - tây?
- Nên tổ chức bộ máy lãnh đạo quy hoạch kiến trúc ra sao?
- Dự án thành phố sông Hồng: Thít chặt lòng sông, sao thoát được lũ?
- Hồng Hà – Hà Nội, trăm năm gần gũi và giận dỗi
- Di tích như một hằng số trong sự biến đổi và chuyển hóa không gian đô thị
- Phong trào "làm mới di tích" và kinh nghiệm phục chế EFEO
- Nâng cao chất lượng bảo tồn di tích
- Điều chỉnh quy hoạch tại TP.HCM: Giảm đất công trình công cộng?
- Không gian xanh công cộng - yếu tố quan trọng để Hà Nội là thành phố sống tốt