BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
THÔNG TIN BÁO CHÍ Về dự án Đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Cát Linh – Hà Đông ---------------------------
Dự án Đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Cát Linh - Hà Đông được Bộ GTVT triển khai thực hiện đầu tư từ năm 2008 đến nay. Trong quá trình thực hiện đã có nhiều nguyên nhân tác động đến tổng mức đầu tư của Dự án. Về việc điều chỉnh Dự án và tổng mức đầu tư theo Văn bản số 2650/VPCP – KTN ngày 17/4/2014 của Văn phòng Chính phủ, Bộ GTVT xin gửi tới các cơ quan thông tấn báo chí thông tin tổng thể về Dự án và các nguyên nhân dẫn đến việc phải điều chỉnh như sau:
I. Khái quát về Dự án và việc ký kết Hợp đồng EPC
1. Phê duyệt Dự án
Dự án được Bộ GTVT phê duyệt tại Quyết định số 3136/QĐ-BGTVT ngày 15/10/2008 với tổng chiều dài tuyến chính được xây dựng 13 km đi trên cao (dầm hộp L = 20 - 32m) và 1,7 km đường sắt ra, vào khu Depot.
Dự án đầu tư xây dựng đường sắt đôi khổ 1.435mm với vận tốc thiết kế Vmax=80km/h, tốc độ bình quân 35 km/h; thời gian tàu chạy từ Cát Linh đến Hà Đông và ngược lại là 23,63 phút; xây dựng 12 nhà ga trên cao, trong đó có 2 nhà ga trung chuyển (ga Cát Linh và ga Đại học Quốc gia); xây dựng nhà điều hành giao thông trung tâm 9 tầng với diện tích sàn 11.800m2 trong khu depot rộng 23 ha. Thời gian thực hiện dự án: 5 năm (từ tháng 11/2008 - đến tháng 11/2013). Dự án được Bộ GTVT giao Cục Đường sắt Việt Nam làm chủ đầu tư. Tổng mức đầu tư Dự án là 8.770 tỷ đồng, tương đương 552,86 triệu USD (tính theo mặt bằng giá Quý I/2008). Về nguồn vốn bao gồm: vốn vay ưu đãi của Trung Quốc 419 triệu USD, trong đó, vốn vay ưu đãi bên mua: 250 triệu USD, lãi suất 4,00%/năm, thời hạn 15 năm, ân hạn 5 năm; vốn vay tín dụng ưu đãi: 1,2 tỷ NDT (tương đương 169 triệu USD) lãi suất 3%/năm, thời hạn 15 năm, ân hạn 5 năm và vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam: 133,86 triệu USD.
2. Việc ký kết hợp đồng Tổng thầu EPC
- Theo Điều 1 của Hiệp định khung ký tại Bắc Kinh ngày 30/5/2008 giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa: "Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đồng ý cho Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc (Người cho vay) cung cấp cho Bộ Tài chính nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Người vay) khoản tín dụng ưu đãi 1,2 tỷ nhân dân tệ, để giải quyết một phần vốn cho Dự án "Đường sắt đô thị Hà Nội - Hà Đông" do Công ty Hữu hạn Tập đoàn Cục 6 Đường sắt Trung Quốc thực hiện…";
- Cục Đường sắt Việt Nam (ĐSVN) đã triển khai thủ tục lựa chọn nhà thầu và ngày 01/05/2009, Bộ GTVT đã có Quyết định số 1183/QĐ-BGTVT phê duyệt kết quả chỉ định thầu gói thầu số 1 (EPC) đối với nhà thầu Công ty hữu hạn Tập đoàn Cục 6 Đường sắt Trung Quốc.
3. Nội dung chính của hợp đồng EPC
Hợp đồng EPC thiết kế, cung cấp vật tư, thiết bị và xây lắp số 01/HĐKT/EPC-CLHĐ được ký kết ngày 22/5/2009 giữa Chủ đầu tư (Cục ĐSVN) với Tổng thầu EPC (Công ty Hữu hạn Tập đoàn Cục 6 Đường sắt Trung Quốc) có một số nội dung chính như sau:
- Phạm vi công việc: thiết kế, cung cấp vật tư, thiết bị, phương tiện và xây lắp công trình; Đào tạo, chuyển giao công nghệ và vận hành chạy thử liên hoàn trước khi hoàn thành công trình, thu dọn hoàn trả mặt bằng.
- Giá hợp đồng EPC: Chủ đầu tư và Tổng thầu EPC đã thương thảo và ký kết hợp đồng EPC với giá tạm tính: 350,573 triệu USD, trong đó: Chi phí khảo sát, thiết kế: 19,493 triệu USD; Chi phí xây lắp: 223,674 triệu USD; Chi phí thiết bị: 54,797 triệu USD; Mua đoàn tàu: 47,040 triệu USD; Đào tạo và chuyển giao công nghệ: 2,088 triệu USD; Vận hành chạy thử: 2,785 triệu USD; Thu dọn hiện trường và hoàn trả mặt bằng: 0,696 triệu USD.
(Giá trị trên chưa bao gồm thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng)
- Chủ đầu tư cam kết thanh toán cho Nhà thầu trên cơ sở khối lượng thiết kế, cung cấp vật tư, thiết bị, thi công xây lắp hoàn thành tại từng thời điểm và theo phương thức được Hợp đồng quy định (Điều 7 của thỏa thuận Hợp đồng).
4. Thời gian thực hiện hợp đồng
Thời gian thực hiện hợp đồng không vượt quá 48 tháng tính từ thời điểm nhà thầu nhận bàn giao toàn bộ mặt bằng sạch.
II. Quá trình thực hiện đầu tư Dự án
Hợp đồng EPC chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 (thời điểm Chủ đầu tư nhận được bảo lãnh thực hiện Hợp đồng từ nhà thầu). Đến nay, sau 51 tháng thực hiện, kết quả đạt được như sau:
1. Công tác giải phóng mặt bằng (GPMB): đã GPMB được khoảng 10km/tổng số 13km chính tuyến, toàn bộ 23ha khu trung tâm Depot và cơ bản hoàn thành GPMB đường nhánh ra vào Depot.
2. Công tác thi công xây lắp: Đã triển khai thi công trên toàn bộ phạm vi có mặt bằng và có thể thi công. Đến nay, đã hoàn thành 286 trụ cầu khu gian/421 trụ (đạt 75%); triển khai thi công 7 nhà ga/tổng số 12 nhà ga; hoàn thành thi công xử lý đất yếu 5,6ha/23ha trong Depot, xây dựng bãi đúc và đúc được 232 phiến dầm, lao lắp được 30 phiến dầm. Tổng giá trị khối lượng thực hiện (bao gồm cả KSTK) là 2.701 tỷ đồng tương đương 31.08% giá trị dự án.
3. Công tác giải ngân: Đã giải ngân 3.400 tỷ đồng, tương đương 39% giá trị dự án (trong đó vốn đối ứng 750 tỷ đồng, vốn nước ngoài 2.650 tỷ đồng, tương đương 126 triệu USD).
4. Về chất lượng công trình: Trong quá trình thực hiện Dự án, Hội đồng Nghiệm thu nhà nước (NTNN) đã tiến hành 03 đợt kiểm tra (vào ngày 29/10/2012, ngày 12/9/2013 và 06/12/2013). Theo đánh giá của Hội đồng NTNN thì chất lượng các hạng mục đã thi công đều đảm bảo theo yêu cầu thiết kế.
5. Về kế hoạch tiến độ tổng thể thực hiện Dự án: Dự kiến đưa dự án vào khai thác trong tháng 12/2015.
III. Các khó khăn, vướng mắc chính của Dự án
1. Các quy định Nhà nước đối với hình thức hợp đồng EPC
- Sự chưa thống nhất về việc quản lý Hợp đồng EPC giữa các quy định về quản lý đầu tư xây dựng của Việt Nam với thông lệ quốc tế được thể hiện qua mẫu hợp đồng do Hiệp hội kỹ sư Tư vấn quốc tế FIDIC soạn thảo và được áp dụng để xây dựng Hợp đồng EPC Cát Linh - Hà Đông: Theo thông lệ quốc tế, tổng thầu EPC chịu trách nhiệm toàn bộ về việc triển khai dự án, Chủ đầu tư chỉ đóng vai trò quản lý, giám sát về chất lượng và tiến độ. Tuy nhiên, theo quy định quản lý đầu tư xây dựng của Việt Nam, Chủ đầu tư chịu trách nhiệm toàn bộ về chất lượng và tiến độ của công trình và phải thực hiện các công việc quản lý chi tiết cho từng hạng mục công việc.
- Trong Luật Xây dựng và các văn bản hướng dẫn trước đây chỉ nêu khái niệm về hợp đồng EPC, không hướng dẫn cụ thể về cách thức thực hiện và quản lý, điều hành, nhất là đối với công tác khảo sát thiết kế (KSTK). Hơn nữa, cả Chủ đầu tư lẫn Tổng thầu đều lần đầu tiên thực hiện hợp đồng EPC nên các điều khoản hợp đồng thống nhất lấy theo mẫu hợp đồng EPC của FIDIC, nhưng việc cụ thể hóa thành các điều khoản chi tiết cho phù hợp với quy định hiện hành và điều kiện cụ thể của Dự án lại chưa được xây dựng đầy đủ, nên quá trình thực hiện đã phát sinh nhiều tình huống phức tạp và phải thảo luận kỹ mới thống nhất được.
- Các quy định hiện hành của Việt Nam không quy định cụ thể về nội dung quản lý và trách nhiệm của Chủ đầu tư trong giai đoạn lập thiết kế kỹ thuật (TKKT), phê duyệt TKKT và TKBVTC đối với hình thức hợp đồng tổng thầu EPC.
2. Về công tác GPMB
Công tác GPMB của Dự án rất khó khăn và phức tạp, trong thời gian vừa qua, mặc dù đã có sự đôn đốc thường xuyên của Bộ GTVT và UBND Thành phố Hà Nội; đồng thời được Thủ tướng Chính phủ quan tâm chỉ đạo, có văn bản gửi UBND thành phố Hà Nội yêu cầu tập trung hoàn thành công tác GPMB đáp ứng yêu cầu tiến độ của Dự án; sự phối hợp chặt chẽ giữa Chủ đầu tư, Ban QLDA ĐS với các đơn vị liên quan của TP Hà Nội, nhưng đến nay công tác này vẫn tiếp tục chậm.
Hiện còn vướng gần 3km/tổng số 13km chính tuyến, cụ thể: vướng đường điện 110Kv đoạn từ đường Đê La Thành - Hoàng Cầu - Láng chiều dài khoảng 1,5km; 1km đường ống cấp nước D500 chưa được di dời trên QL6; vướng 80 hộ dân tại khu vực ga Cát Linh, 20 hộ dân và 01 tổ chức tại phường Thịnh Quang, quận Đống Đa; đoạn đường dẫn vào khu depot còn vướng 16 ngôi mộ chưa cải táng tại Nghĩa trang Văn Nội – Hà Đông.
3. Về công tác khảo sát, lập thiết kế, dự toán
- Do tiến độ thực hiện công tác GPMB nhiều đoạn tuyến bị chậm nên không thể thực hiện công tác khoan khảo sát địa chất lấy số liệu lập TKKT. Đến thời điểm hiện tại, vẫn còn ga Cát Linh và các đoạn tuyến từ hồ Đống Đa đến đường Láng, đoạn qua khu dân cư phường Thịnh Quang quận Đống Đa chưa thể khảo sát địa chất chi tiết.
- Việc xin thỏa thuận của các cơ quan liên quan thuộc TP. Hà Nội gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Cụ thể như với nhà ga Cát Linh, mặc dù các bên liên quan đã rất cố gắng nhưng phải qua 9 tháng mới có được quy hoạch tổng mặt bằng và ranh giới thu hồi đất được duyệt, vì bị phụ thuộc vào tiến độ lập và phê duyệt điều chỉnh quy hoạch tổng mặt bằng và không gian kiến trúc, cảnh quan khu vực 47 Cát Linh và nút giao Giảng Võ - Cát Linh - Giang Văn Minh do Viện Quy hoạch xây dựng TP Hà Nội thực hiện.
Thực tế, đến ngày 09/08/2013, UBND TP. Hà Nội có Quyết định số 4746/QĐ-UBND phê duyệt hồ sơ điều chỉnh quy hoạch này. Sau đó, Sở Quy hoạch kiến trúc có cơ sở hướng dẫn chủ đầu tư hoàn thiện quy hoạch tổng mặt bằng, ranh giới thu hồi đất cho nhà ga Cát Linh và ngày 30/9/2013 mới chính thức phê duyệt, ngày 20/12/2013 phê duyệt được phương án kiến trúc sơ bộ nhà ga.
4. Về công tác thi công xây lắp
- Công tác xin cấp phép thi công thường kéo dài và cấp cho từng đoạn nhỏ lẻ, đôi khi còn cấp cho từng trụ, làm chậm tiến độ triển khai các mũi thi công trên tuyến (ví dụ như các trụ khu vực nút giao Vành đai 3 thường mất 2 - 3 tháng, đoạn DR1 - DR7 dọc đường Láng phải mất 3,5 tháng mới được cấp phép quây hàng rào thi công; các đoạn còn lại hầu hết đề bị chậm so với kế hoạch ban đầu do thủ tục xin cấp phép thi công;
- Mặc dù đã được Sở Xây dựng bàn giao mặt bằng hoàn thành di dời Công trình hạ tầng kỹ thuật, nhưng trong quá trình thi công vẫn còn sót lại nhiều công trình ngầm, nhà thầu phải dừng thi công để chờ xử lý, nhiều trường hợp mất 1 - 2 tháng;
- Tổng thầu kiểm soát các thầu phụ thi công không chặt chẽ, còn phụ thuộc nhiều vào Ban QLDA và TVGS. Công tác lập, trình duyệt thiết kế BVTC và biện pháp thi công chi tiết còn chậm trễ.
5. Về công tác đào tạo nhân lực quản lý, vận hành, khai thác Đối với dự án xây dựng đường sắt đô thị, thì ngay từ khi bắt đầu xây dựng đã cần phải có Công ty quản lý vận hành và khai thác (Công ty O&M). Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, công ty này vẫn chưa được thành lập nên công tác tuyển dụng đưa nhân lực đi đào tạo vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn.
IV. Các nguyên nhân dẫn đến phải điều chỉnh TKCS và Tổng mức đầu tư của dự án
- Dự án đường sắt đô thị Hà Nội tuyến Cát Linh - Hà Đông là tuyến đường sắt đô thị đầu tiên ở Việt Nam có quy mô lớn và tính chất kỹ thuật phức tạp, đã được bắt đầu nghiên cứu Báo cáo nghiên cứu khả thi từ đầu năm 2004, nên các đơn vị Chủ đầu tư (Cục ĐSVN) và Tư vấn lập dự án (TEDI) chưa có nhiều kinh nghiệm. Do vậy, Báo cáo nghiên cứu khả thi và TKCS còn có những nội dung cần phải thay đổi trong quá trình TKKT và thi công sau này để phù hợp thực tế.
- Dự án đã trải qua thời gian khá dài (được bắt đầu nghiên cứu từ năm 2004 và quyết định đầu tư vào tháng 10/2008). Khoảng thời gian từ đó đến nay có nhiều biến động lớn về giá đầu vào cho các công trình xây dựng, làm ảnh hưởng đến TMĐT của Dự án. Chi phí dự phòng trượt giá trong TMĐT đã duyệt năm 2008 là 17%, tương ứng 69,1 triệu USD. Tuy nhiên, tính toán của Chủ đầu tư và TEDI cho thấy do giá cả và chế độ chính sách thay đổi, nên kinh phí trượt giá cho khối lượng xây lắp phải bổ sung dự tính khoảng 134,1 triệu USD.
- Hợp đồng EPC ký giữa Cục ĐSVN và Công ty Hữu hạn Tập đoàn Cục 6 Đường sắt Trung Quốc vào tháng 5/2009 có nội dung chính: Giá hợp đồng là tạm tính và chỉ được sử dụng cho việc tạm ứng hợp đồng; Việc thanh toán khối lượng xây lắp hoàn thành dựa trên khối lượng trong TKKT và đơn giá trong dự toán được cấp thẩm quyền (Chủ đầu tư - Cục ĐSVN) phê duyệt nhưng không được vượt giá hợp đồng tạm tính. Giá hạng mục cung cấp vật tư thiết bị và đầu máy toa xe nhập khẩu về nguyên tắc không điều chỉnh so với giá hợp đồng, trừ trường hợp đặc biệt có thể điều chỉnh khi được cấp có thẩm quyền của Việt Nam cho phép. Chi phí khảo sát, thiết kế do Tổng thầu lập dự toán và Chủ đầu tư phê duyệt, nhưng không được vượt giá hợp đồng đã ký (19,5 triệu USD).
Thông tư 08/2003/TT-BXD ngày 9/7/2003 của Bộ Xây dựng hướng dẫn nội dung và quản lý hợp đồng EPC có cho phép “với dự án có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp thì giá hợp đồng được Chủ đầu tư và Tổng thầu thống nhất tạm tính, trên cơ sở mức vốn đầu tư dành cho dự án EPC trong TMĐT được duyệt và được xác định chính thức khi có kết quả đấu thầu mua sắm thiết bị và TKKT - TDT được duyệt”.
Cụ thể, các nguyên nhân dẫn đến phải điều chỉnh dự án và tổng mức đầu tư, bao gồm:
1. Thay đổi phương án nhà ga từ 2 tầng thành 3 tầng
Theo TKCS: Phương án thiết kế ga 3 tầng bố trí toàn bộ các phòng chức năng tại tầng 2, phương án thiết kế ga 2 tầng các phòng chức năng đặt dưới mặt đất ở hai bên lề đường; do đó việc thay đổi phương án nhà ga làm giảm thiểu tối đa khối lượng giải phóng mặt bằng, đẩy nhanh tiến độ thi công dự án, đồng thời tại mỗi nhà ga có thêm chức năng làm cầu vượt cho người đi bộ qua đường và tăng mỹ quan đô thị. Sau khi cân nhắc các tiêu chí về kinh tế và tiến độ, Bộ GTVT đã có Thông báo số 156/TB-BGTVT ngày 21/04/2010 chấp thuận lựa chọn phương án ga 3 tầng trên cao cho dự án.
Về phương án thay đổi thiết kế ga 2 tầng thành 3 tầng, TEDI đã thực hiện nhiệm vụ Bộ GTVT giao ( Thông báo số 780/BGTVT – TB ngày 24/10/2013) và tính toán chi phí xây lắp nhà ga 3 tầng là 133,3 triệu USD tăng so với bước lập dự án là 84,2 triệu USD (trong đó: tăng do trượt giá: 43,5 triệu USD, tăng do thay đổi quy mô: 40,7 triệu USD); chi phí GPMB giảm 43,1 triệu USD.
2. Bổ sung hạng mục xử lý nền đất yếu khu Depot
Theo TKCS, dự kiến khu vực Depot phát hiện đất yếu xuất hiện ở độ sâu khoảng từ 2m đến 3m, đây là lớp bùn sét hữu cơ, màu sám đen, màu xanh có chiều dày lớp tương đối lớn (trên 20m). Tuy nhiên, Tư vấn lập dự án (TEDI) không đề xuất phương án xử lý nền đất yếu cho khu vực này.
Khi triển khai TKKT, Tư vấn thiết kế căn cứ vào số lượng khảo sát địa chất chi tiết đã kiến nghị phải xử lý nền đất yếu để đảm bảo chất lượng công trình. Tại Văn bản số 6631/BGTVT-CQLXD ngày 17/10/2011 và Thông báo số 406/TB-BGTVT ngày 20/11/2011 của Bộ GTVT đã cho phép bổ sung hạng mục xử lý nền đất yếu khu Depot. Chi phí cho việc xử lý nền đất yếu là 13,54 triệu USD.
3. Bổ sung hạng mục đường tránh Quốc lộ 6
Theo TKCS, tuyến đường sắt sẽ được đặt tại dải phân cách của Quốc lộ 6 được qui hoạch mở rộng. Tuy nhiên, đến khi TKKT, dự án mở rộng Quốc lộ 6 đoạn Ba La – Bến xe Yên Nghĩa thuộc UBND TP Hà Nội vẫn chưa được triển khai. Để có mặt bằng thi công, đảm bảo phân luồng giao thông trong quá trình thi công, Tổng thầu EPC đã trình Cục ĐSVN phương án thi công đường tránh. Ngày 19/3/2013, Sở GTVT Hà Nội đã có Văn bản số 739/SGTVT-GTĐT chấp thuận thi công đường tránh với quy mô, kết cấu theo dự án Quốc lộ 6 mở rộng (đường Quang Trung kéo dài). Ngày 1/4/2013, Bộ GTVT đã có Văn bản số 2755/BGTVT-CQLXD chấp thuận cho phép xây dựng hạng mục đường tránh Quốc lộ 6. Việc xây dựng đường tránh Quốc lộ 6 này cần phải bổ sung chi phí là 1,94 triệu USD. Đường tránh QL6 sẽ được tận dụng giữ lại như một phần của QL6 mở rộng theo qui hoạch, không phải đào bỏ khi thi công xong dự án đường sắt. Như vậy trong tương lai, khi triển khai QL6 mở rộng sẽ không phải đầu tư hạng mục đã thi công này.
4. Điều chỉnh vật liệu vỏ tàu từ thép chịu khí hậu sang thép inox
Theo thiết kế cơ sở, thân tàu dùng thép chịu khí hậu. Tuy nhiên, theo báo cáo của Tổng thầu EPC thì hiện nay tại Trung Quốc và các nước trên thế giới không sản xuất thân tàu bằng thép chịu khí hậu mà dùng thép không gỉ hoặc hợp kim nhôm (qua tham khảo 02 dự án đường sắt đô thị tuyến Nhổn - ga Hà Nội và tuyến Bến Thành - Suối Tiên, TVTK của cả 02 dự án này đều đề xuất làm thân tàu bằng thép không gỉ hoặc hợp kim nhôm).
Bên cạnh đó việc sử dụng thân vỏ tàu bằng thép không gỉ sẽ không phát sinh chi phí xây dựng xưởng sơn duy tu bảo dưỡng vỏ tàu, tiết kiệm thời gian, chi phí sơn sửa vỏ tàu trong quá trình khai thác sau này. Ngày 14/3/2013, Bộ GTVT đã có Văn bản số 2076/BGTVT-KHCN chấp thuận thay đổi vật liệu thân vỏ tàu. Chi phí cho việc thay đổi này tăng thêm 3,19 triệu USD, nhưng sẽ không phải đầu tư 2,48 triệu USD để xây dựng xưởng sơn sau này và giảm thiểu ảnh hưởng vệ sinh môi trường.
5. Bổ sung chi phí đào tạo, chuyển giao công nghệ
Theo dự án đầu tư ban đầu, chí phí đào tạo chưa bao gồm chi phí ăn ở, đi lại của học viên. Do đó, phải bổ sung thêm kinh phí cho việc ăn ở, đi lại của học viên.Tại Thông báo số 780/TB-BGTVT ngày 24/10/2013 của Bộ GTVT đã xác định chi phí tối đa cho hạng mục này chỉ khoảng 5,00 triệu USD. Như vậy, chi phí cho việc bổ sung này tăng thêm 2,91 triệu USD.
6. Thay đổi vị trí bãi đúc dầm, phương án vận chuyển lao lắp dầm Theo TKCS, dầm hộp giản đơn được đúc trong nhà xưởng, vận chuyển ra công trường và tiến hành lao lắp;
Khi TKKT bãi dầm, dự kiến sử dụng khu Depot để xây dựng bãi đúc dầm. Tuy nhiên, công tác GPMB khu vực đường nhánh ra vào Depot không đáp ứng tiến độ ban đầu. Vì vậy không thể đúc và lao lắp dầm như phương án ban đầu.
Ngày 15/01/2013, Bộ GTVT đã có Thông báo số 35/TB-BGTVT và Văn bản số 3626/BGTVT-CQLXD ngày 25/04/2013 cho phép Tổng thầu EPC thuê thêm bãi đúc dầm. Việc thay đổi phương án thi công dầm cần phải bổ sung kinh phí (thuê bãi,huy động thêm thiết bị đúc và lao lắp dầm) khoảng 10,16 triệu USD.
7. Những thay đổi khác: Ngoài một số hạng mục điều chỉnh, bổ sung phát sinh chính so với TKCS nêu trên, trong giai đoạn TKKT còn có một số điều chỉnh nhỏ để đảm bảo an toàn và phù hợp theo quy trình quy phạm của Trung Quốc.
8. Do biến động về giá nguyên, nhiên, vật liệu, tỷ giá hối đoái; các chế độ, chính sách trong thời gian thực hiện dự án cũng như các khối lượng, đơn giá chưa tính chính xác được trong bước TKCS. Các thay đổi chính về biến động giá, thay đổi chế độ, chính sách cũng như các khối lượng, đơn giá chưa tính chính xác được trong bước TKCS nên dự kiến cần phải bổ sung kinh phí khoảng 95 triệu USD.
9. Do công tác GPMB và di dời công trình hạ tầng kỹ thuật gặp nhiều khó khăn, thời gian thực hiện kéo dài dẫn đến tăng chi phí; chi phí xây lắp tăng dẫn đến chi phí thuế GTGT, lãi vay, bảo hiểm vốn vay, phí các loại (cho phần vốn dự kiến vay thêm) cũng tăng theo dự kiến cần phải bổ sung kinh phí khoảng 88,3 triệu USD.
V. Dự kiến Tổng mức đầu tư điều chỉnh
Ngày 23/12/2013, Tổng thầu EPC có Văn bản số 1340/2013/CRSG/HNHĐ về việc đề nghị điều chỉnh tăng TMĐT kèm theo Báo cáo phân tích tăng tổng mức đầu tư với giá trị bổ sung cho Gói thầu số 1 (EPC) là 258,4 triệu USD (chưa bao gồm chi phí dự phòng 25,84 triệu USD).
Chủ đầu tư đã phối hợp với Tư vấn thẩm tra (TEDI) rà soát trên cơ sở hồ sơ tính toán chi phí bổ sung của Tổng thầu đối với Gói thầu EPC và các chi phí khác (chi phí GPMB, chi phí tư vấn, chi phí khác, thuế GTGT,…) trong TMĐT. Từ đó xác định được biểu khái toán TMĐT điều chỉnh là 891,92 triệu USD (tương đương 18.792.754.000.000 đồng (tỷ giá quy đổi 1USD = 21.070 đồng), giá trị tăng thêm so với TMĐT được duyệt: 339,1 triệu USD (tương đương 7.144.837.000.000 đồng). Trong đó chi phí tăng thêm cho gói thầu EPC là 250,8 triệu USD, chi phí tăng thêm cho công tác GPMB, tư vấn, chí khác , thuế GTGT… và dự phòng: 88,3 triệu USD.
VI. Giải pháp triển khai trong thời gian tới
- Chủ đầu tư và Nhà thầu EPC hoàn chỉnh TKKT dự toán, trình các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt trên cơ sở thẩm định của Viện Kinh tế Bộ Xây dựng.
- Tập trung hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng trong tháng 6/2014.
- Rà soát tiến độ và lập lại tiến độ tổng thể chỉ đạo hoàn thành Dự án vào năm 2015 và vận hành khai thác năm 2016.
BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI Hà Nội, ngày 22 tháng 4 năm 2014
Chi tiết xin liên hệ: Văn phòng Bộ GTVT – Phòng Thông tin Tuyên truyền Tel: 3.9426128 Hoặc: - Cục Đường sắt Việt Nam Ông: Nguyễn Ngọc Sơn – Phòng Xây dựng cơ bản Tel: 39427549 - Di động: 0913006109 - Ban QLDA Đường sắt Ông Trần Văn Lục – Giám đốc Dự án Tel: 0972922525
|