Ashui.com

Tuesday
Nov 05th
Home Tương tác Phản biện Tiếp cận cạnh tranh trong chiến lược phát triển đô thị Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

Tiếp cận cạnh tranh trong chiến lược phát triển đô thị Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

Viết email In

Huyện Điện Bàn là một đơn vị hành chính lãnh thổ, một khu vực sản xuất và tiêu thụ, và là một khu vực định cư đang chuyển thành đô thị nằm trong vùng phát triển kinh tế nhanh có tốc độ cao nằm trong một khu vực động lực phát triển với hai đầu là hai đô thị lớn là Đà Nẵng và Hội An. Nằm trong một khu vực có sự cạnh tranh về địa điểm trong sự tương đồng về văn hóa, về ưu đãi của thiên nhiên của cả vùng định cư, sản xuất, và sinh thái, việc lựa chọn cách thức để vươn lên là một đô thị không đơn giản khi đã có những thành công ở khu vực lân cận. Đây là những yếu tố phải tính đến trong việc lập quy hoạch, kế hoạch, và chiến lược phát triển địa phương xét cả từ góc độ đô thị hay vùng định cư và sản xuất. Bài viết nhấn mạnh việc xem xét các lựa chọn trên nền tảng phân tích cạnh tranh trong quá trình lập kế hoạch và chiến lược phát triển cho đô thị và cả vùng lân cận. 

Bối cảnh cạnh tranh trong không gian vùng và đô thị(1)

Điện Bàn phải cạnh tranh với các đô thị đã phát triển trong vùng. 

Bối cảnh cạnh tranh có thể được hiểu là bối cảnh mà mỗi sản phẩm hay dịch vụ cung cấp đều có các lựa chọn thay thế, có các đối thủ khác và tiềm tàng có thể giành thị phần của mình, giá bán quy định bởi mặt bằng các nhà cung cấp, và không phải những gì đã đúng trong quá khứ với mình sẽ tiếp tục đúng mãi(2). Bản chất của nền kinh tế thị trường và cũng là lợi ích của tự do cạnh tranh là giảm thiểu độc quyền và lợi dụng vị thế độc quyền để trục lợi, dẫn đến các doanh nghiệp phải tối ưu hóa các hoạt động phân bổ và sử dụng nguồn lực hữu hạn, làm hài lòng và giữ được khách hàng. 

Trong lĩnh vực địa kinh tế, bối cảnh cạnh tranh diễn ra không chỉ trong các ngành hàng hay sản phẩm cụ thể mà còn là cạnh tranh ở quy mô địa điểm phát triển hay các vùng lãnh thổ và các đô thị sản xuất hay tiêu thụ sản phẩm. Nói cách khác, sự cạnh tranh diễn ra trên các địa bàn khác nhau hay cách xa nhau hàng ngàn cây số nhưng cùng cung cấp các mặt hàng hay dịch vụ tương đồng hay ‘thú vị vì sự khác biệt’ cho những khách hàng có sự lựa chọn giữa các địa điểm khác nhau về mặt địa lý nói trên.

Các đô thị hay vùng cạnh tranh nhau bằng cách tối ưu hóa trên nhiều giác độ để doanh nghiệp trên địa bàn đó có thể sản xuất ra các sản phẩm rẻ hơn và khác biệt về giá trị xứng đáng hơn. Theo Giáo sư Michael Porter, chiến lược cạnh tranh cần được hiểu là chiến lược để làm cho lợi thế cạnh tranh của mình được phát huy hoặc sự khác biệt và vượt trội về sản phẩm của mình so với các đối thủ khác được duy trì (Porter 2008). Điều này cũng có nghĩa là họ phải tạo điều kiện để đô thị hay vùng đó khai thác được các lợi thế cạnh tranh của địa phương đó trước mắt những nhà đầu tư tiềm năng hay các chủ thể có quyền lựa chọn địa điểm để sinh sống và phát triển.

Lợi thế cạnh tranh của mỗi vùng đất có thể hiểu là sự khác biệt tự nhiên và nhân tạo. Về tổng thể, mỗi vùng địa lý ở quy mô nhất định luôn có tính duy nhất của vị trí và điều kiện tự nhiên. Bên cạnh đó, một số yếu tố khác không phải hình thành từ tự nhiên cũng thăng hoa theo địa bàn bởi các yếu tố văn hóa của vùng đã tối ưu hóa theo vùng đất. Các điều kiện sản xuất (kể cả hạ tầng khung), thói quen và phong cách tiêu dùng, hay nhu cầu thị trường tại chỗ và sức mua cũng có thể được hình thành gắn với vùng đất cụ thể. Các điều kiện nhân tạo bao gồm cách thức tổ chức lực lượng lao động, thể chế, cơ sở hạ tầng, điều kiện vận hành thị trường, và chất lượng môi trường. Đây là những yếu tố có thể thay đổi rất lớn do lãnh đạo và cộng đồng dân cư, doanh nghiệp tại vùng đó sau một thời gian.

Tuy nhiên, việc khai thác tính duy nhất cũng như thay đổi để tạo ra lợi thế không phải đơn giản. Việc đầu tiên là phải tìm đúng lĩnh vực để khai thác và phát huy thế mạnh của vùng/đô thị. Điều này giống như việc nhận diện đúng vị trí (positioning) của địa phương mình trên bản đồ các địa danh khác trong sản xuất trên thị trường. Đối với từng sản phẩm riêng lẻ thì đây là việc của doanh nghiệp nhưng việc định vị sản phẩm của vùng thường đòi hỏi vai trò lãnh đạo và hỗ trợ của các hiệp hội và đặc biệt là chính quyền các cấp.

Sau khi tìm được đúng lĩnh vực, cần phải duy trì thế mạnh này bởi các hoạt động dẫn đến ảnh hưởng lợi thế cạnh tranh như xâm hại tài nguyên ảnh hưởng thế mạnh của vùng, làm giả thương hiệu vùng v.v.. diễn ra thường xuyên đỏi hỏi chính quyền ra tay. Ngoài ra, do các địa phương khác cũng luôn vận động và sáng tạo nên vị thế cạnh tranh cũng biến đổi theo thời gian. Điều này đòi hỏi sự sáng tạo và thích ứng của lãnh đạo và các nhà quản lý một cách liên tục. Cách tiếp cận liên tục thích ứng đối với các vấn đề bất định nhưng mục tiêu kiên định để xác định vị trí và chỗ đứng có thể hiểu là tiếp cận chiến lược để cạnh tranh.

Tất nhiên, có một vấn đề thực tiễn là cạnh tranh luôn không hoàn hảo. Luôn có sự bất đối xứng về thông tin, về không cân bằng trong quyền lực chính trị, về nhận thức và khả năng hiện thực hóa mục tiêu của từng địa phương, hay sự khác biệt về văn hóa, về cơ hội phát triển. Sự không hoàn hảo của tính cạnh tranh thể hiện rất rõ sự khác biệt về địa kinh tế và địa chính trị của mỗi vùng đất. Một khu vực đôi khi có lợi thế duy nhất đối với vùng hay đô thị lân cận và việc đầu tư hay phát triển lĩnh vực gì là tương đối xác định đối với nhiều doanh nghiệp hay chủ thể phát triển khác. Vị trí đó trở thành độc quyền hoặc ngược lại, là vị trí bất lợi phải hứng chịu khó khăn và ít có những lựa chọn khác tương đương. Môi trường không cạnh tranh hoàn hảo cũng là một yếu tố phải tính đến trong lập các bài toán phát triển.

Việc lựa chọn đúng lĩnh vực có tính cạnh tranh và duy trì nó là việc làm quy hoạch và chiến lược hành động cùng với quá trình giám sát. Ưu điểm hay khó khăn cũng cần phải làm rõ để các kế hoạch đầu tư hạ tầng, ưu đãi chính sách và thuế để có thể hiện thực hóa lợi thế sẵn có để thu hút doanh nghiệp. Chúng ta cùng bàn về vấn đề này. 


(Ảnh minh họa: sân bay Chu Lai / nguồn: UBND tỉnh Quảng Nam) 

Lập quy hoạch trong bối cảnh cạnh tranh

Điện Bàn cần lập quy hoạch để thực hiện chiến lược phát triển. 

Việc lập kế hoạch và quy hoạch phát triển thường bắt đầu bằng nghiên cứu hiện trạng và lập quy hoạch dựa trên các phân tích dự báo căn bản như tăng trưởng dân số và mục tiêu tăng trưởng GDP kỳ vọng. Các yếu tố tăng trưởng khác như nguồn lực đất đai, vốn đầu tư cho hạ tầng cơ sở và lao động thường được phân bổ xuôi chiều(3) nhằm hiện thực hóa mục tiêu GDP nói trên. Cách làm trên mặc dù không phải là tất cả nhưng khá đại diện cho hầu hết các địa phương và các đô thị hiện nay.

Vấn đề của quy hoạch truyền thống là quá trình lập kế hoạch "thường" chỉ chú ý tới vấn đề trong phạm vi một vùng nghiên cứu, đánh giá các yếu tố phát triển chủ yếu diễn ra bên trong đô thị/vùng nghiên cứu mà ít xây dựng kịch bản dựa trên triết lý cạnh tranh từ các chủ thể phát triển ngoài nhà nước và đô thị khác. Có thể nhận thấy vấn đề này ở ba khía cạnh:

Thứ nhất, quá trình lập quy hoạch ít đầu tư phân tích xác định rõ các mặt hàng của địa phương mình cạnh tranh với ai. Nếu thị trường tiêu thụ hoặc cấu phần quan trọng của sản phẩm địa bàn tham gia gia công không nằm trong địa bàn thì phải làm rõ những chủ thể nào khác cũng có thể làm ra sản phẩm tương tự hoặc cũng có thể trở thành đối thủ cạnh tranh khi các nhà đầu tư lựa chọn;

Thứ hai, địa phương/đô thị có đánh giá các đối thủ cạnh tranh (có thể là đô thị hay địa bàn lân cận và tương tự) về các điều kiện sản xuất tương đương tại địa bàn của họ. Việc đánh giá này chủ yếu là lợi thế và điều kiện tự nhiên để tạo ra sản phẩm. Cũng có thể xét cả các yếu tố con người như quyết tâm của lãnh đạo hay tiềm lực về vốn, lao động, hay công nghệ tại chỗ.

Thứ ba, địa phương có lập kế hoạch theo dạng chiến lược, tức là thường xuyên cập nhật để hoàn thiện mình không. Do các đối thủ cạnh tranh cũng thường xuyên đổi mới, sáng tạo và điều chỉnh thường xuyên các cách thức vận hành và tổ chức để cạnh tranh. Việc lập kế hoạch không tính tới các nỗ lực và khả năng điều chỉnh thường xuyên của các đối thủ cạnh tranh khác trong lĩnh vực, trong khu vực, hay trong từng giai đoạn cụ thể cũng là thiếu sự liên hệ với bối cảnh cạnh tranh.

Muốn kế hoạch phát triển gần với thực tiễn hơn, các bản quy hoạch và kế hoạch hay chiến lược cần tiếp cận từ bản chất cạnh tranh của thực tiễn phát triển – khi các chủ thể phát triển không phải chỉ có duy nhất một lựa chọn. Tiếp cận này đòi hỏi các kịch bản tăng trưởng và dự báo phải làm giống phân tích cạnh tranh giống cách làm của doanh nghiệp. Thiếu cách tiếp cận này, rất có thể điệp khúc nông dân được mùa rớt giá, sự hình thành của các đô thị ‘ma’ ven đô, và đầu tư theo phong trào để bất động sản đóng băng sẽ tiếp diễn bởi các chủ thể phát triển đã thiếu cái nhìn so sánh với các đối thủ ở xa nhưng vẫn giành mất thị phần trong phạm vi ảnh hưởng của mình.

Tính cạnh tranh của đô thị trung bình

Điện Bàn sẽ cạnh tranh từ giác độ một đô thị trung bình. 

Nếu nhấn mạnh khía cạnh kinh tế thì cạnh tranh được hiểu là sự cạnh tranh về sức mạnh kinh tế giữa các đô thị và vùng đô thị hay thậm chí quốc gia trong kỷ nguyên toàn cầu hóa (Harris 1997). Tuy nhiên, đây chỉ là cuộc chơi của các vùng đô thị lớn còn các đô thị trung bình thường chỉ cạnh tranh ở một số mặt hàng cụ thể và đặc biệt là cạnh tranh về chất lượng môi trường sống.

Nếu xét riêng trong vấn đề môi trường sống, việc duy trì chất lượng môi trường sống tốt (livable cities) đã phản ánh đầy đủ ý nghĩa của cạnh tranh. Những nỗ lực cải thiện điều kiện cho những ai đang ở trên địa bàn của mình làm cho cư dân muốn chuyển đến sinh sống, muốn phát triển lâu dài bởi sự đảm bảo về tương lai. Qua đó, người dân và chính quyền đô thị có thu nhập và cạnh tranh hơn (Robert J.Rogerson 1999).

Một trong những cách tiếp cận để làm rõ tính cạnh tranh của một vùng đất hay một đô thị là phương pháp xác định giá trị tài sản (assets). Đối với đô thị, tài sản có thể là công trình công cộng, cơ sở hạ tầng, nhưng đặc biệt đó cũng là những giá trị cảnh quan tự nhiên, sự trong sạch của môi trường, hệ sinh thái, hình ảnh đô thị, hay thậm chí nét đẹp văn hóa ứng xử bản địa. Trong nhiều trường hợp, giá trị của các tài sản này có sự khác biệt lớn giữa các bên trong định giá. Việc định giá đúng sẽ giúp đem lại đánh giá đúng thế mạnh của đô thị cũng như có thể tìm được phương án phát triển phù hợp với tập quán của địa phương.

So với các đô thị lớn, đô thị nhỏ có lợi thế về các "tài sản" liên quan đến du lịch cảnh quan, sinh thái, hay đảm bảo chất lượng cuộc sống như ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội, tắc nghẽn giao thông, an ninh trật tự, và chi phí đắt đỏ về nhà ở và sinh hoạt. Ngược lại, đô thị nhỏ thường bất lợi hơn về cơ hội việc làm và thu nhập cao và tiếp cận đến các dịch vụ cao cấp như giải trí, chữa bệnh. Trên thực tế, chất lượng sống cao nhất không ở các siêu đô thị mà thường ở các đô thị trung bình city quality (City mayors 2014).

Việc đo lường chất lượng sống và so sánh có nhiều cách khác nhau, xong tham khảo phương pháp đánh giá về chất lượng cuộc sống (livable index) của công ty Mercer thì các đô thị có thể được đánh giá trên 10 nhóm chỉ tiêu như sau mercer (Mercer Surveys 2014): 

1. Môi trường chính trị và xã hội (ổn định chính trị, tội phạm và cưỡng chế pháp luật)
2. Môi trường kinh tế (các điều khoản quy định về tỉ giá ngoại hối, dịch vụ, và ngân hàng)
3. Môi trường văn hóa-xã hội (mức độ kiểm duyệt, hạn chế tự do cá nhân)
4. Sức khỏe và vệ sinh (dịch vụ y tế, bệnh truyền nhiễm, hệ thống thoát nước và quản lý chất thải rắn)
5. Trường học và giáo dục (tiêu chuẩn và sự sẵn có của các trường quốc tế)
6. Chất lượng dịch vụ công và giao thông (điện, nước, giao thông công cộng, và tắc nghẽn giao thông)
7. Giải trí nghỉ ngơi (nhà hàng, rạp hát, chiếu bóng, thể thao, và giải trí)
8. Các hàng tiêu dùng (sẵn có của thực phẩm, các hàng hóa thông thường)
9. Nhà ở (nhà cửa, thiết bị gắn kèm, đồ nội thất, chất lượng bảo trì)
10. Chất lượng môi trường tự nhiên (khí hậu, thảm họa tự nhiên) 

Căn cứ theo hệ thống tiêu chí này, hàng trăm đô thị trên thế giới để xếp hạng so sánh với thành phố New York.  Các đô thị của Việt Nam có chỉ số khoảng 60/100 điểm, đứng thứ 140-150 so với các đô thị tốt nhất trong những năm gần đây.  Nhìn chung, đây các thành phố có chất lượng sống tốt nhất đều thuộc nhóm các thành phố trung bình hoặc lớn (không phải các siêu đô thị), được hình thành từ lâu, được quản lý tốt, có sức thu hút về du lịch, sinh thái, thường có các công trình kiến trúc cổ, các di sản độc đáo về văn hóa (Xem bảng dưới). 

 

Bảng 1: Xếp hạng 10 đô thị có chất lượng sống tốt nhất năm 2012 và 2014 
(Nguồn: http://www.mercer.com/press-releases/quality-of-living-report-2014 )

Với sự đánh giá toàn diện, để đảm bảo chất lượng sống tốt và ổn định, chính quyền các đô thị đều phải có hệ thống đánh giá và đo lường nỗ lực quản lý của mình. Hệ thống này ở mỗi quốc gia có thể khác nhau, xong nhìn chung chúng luôn là cơ sở để khắc phục nhược điểm và phát huy lợi thế. Việc xây dựng những hệ thống đánh giá này trên thế giới đã được hình thành từ lâu do nhiều tổ chức quốc tế và chính quyền địa phương áp dụng hieu (Hieu 2012).

Gần đây, việc áp dụng hệ thống đánh giá nỗ lực quản lý và đánh giá cạnh tranh hiện nay cũng đang được phát triển ở Việt Nam (ACVN and UN-Habitat 2010;Hieu 2011). Nếu được đem vào áp dụng, kỳ vọng rằng hệ thống này sẽ cung cấp những cơ sở tin cậy hơn cho các nhà quản lý và quy hoạch khi đánh giá thế mạnh và lợi thế cạnh tranh cũng như có thể giúp lựa chọn các phương án quy hoạch và phát triển (xem ví dụ đánh giá ở hình dưới). Hệ thống này áp dụng ở diện rộng cũng cho phép đánh giá so sánh về mức độ cạnh tranh giữa các đô thị về chất lượng sống và nhiều mặt khác. 

Hình 1: Hồ sơ đô thị Sơn Tây – đánh giá tổng hợp một số chỉ tiêu cơ bản về quản lý đô thị năm 2011
(Nguồn: Đề tài Nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng quản lý đô thị, Học viện Hành chính, 2012) 

Tuy nhiên, dù cho còn có những khiếm khuyết mặt này hay khác thì không nên coi các tiêu chí trở thành chỉ tiêu đạt tới như một hình tròn, phải tốt đều mọi hướng. Trên thực tế, rất khó có thể đảm bảo các yếu tố tốt như nhau bởi nguồn lực là có hạn. Hơn nữa, mỗi đô thị có bản sắc riêng và từng địa phương sẽ luôn có những thứ mà họ tự hào và làm cho du khách đáng nhớ.

Kết luận

Một số vấn đề gợi ý trong tiếp cận chiến lược đối với sự cạnh tranh trong phát triển. 

Bối cảnh cạnh tranh là luật chơi của thời đại mà các nhà quản lý không thể bỏ qua trong kỷ nguyên thông tin, dân chủ, tự do, và toàn cầu hóa như hiện nay. Tùy thuộc vào tầm cỡ, quy mô, trình độ kinh tế, và đặc điểm riêng của từng đô thị mà người tham gia cuộc chơi này sẽ khác nhau. Trước hết, việc quy hoạch, lập kế hoạch cho Điện Bàn và vùng cần đảm bảo phương pháp tiếp cận và tính toán chiến lược đã tính đến các yếu tố cạnh tranh. 

Cách thức để cạnh tranh có nhiều, xong quản lý đô thị để cạnh tranh chính là tự hoàn thiện cách thức quản lý, huy động và sử dụng nguồn lực; tìm ra sự khác biệt và sáng tạo để phát huy tốt nhất lợi thế sẵn có cũng như thu hút các nguồn lực ‘động’ để có được khách hàng và vị thế tốt hơn trên các ‘sân chơi’ trong nước và quốc tế. Sự hoàn thiện mình ở đây không đơn chỉ tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động, mà là tạo điều kiện để cư dân ở đây có cuộc sống tốt hơn, đáng sống hơn, bảo vệ và gia tăng giá trị ‘tài sản đô thị’, và giúp doanh nghiệp kinh doanh tốt hơn. Các đô thị và vùng định cư phát triển sau có tính kết nối như Điện Bàn là đô thị mới, đi sau thì sự khác biệt và sáng tạo có lợi thế về mặt ít bị ràng buộc bởi những giá trị cũ nhưng cũng là thách thức bởi không dễ tạo dựng những giá trị mới.

Lợi thế cạnh tranh của Điện Bàn cần làm rõ sự khác biệt không chỉ là tính độc quyền về vị trí. Đối với các đô thị quy mô kinh tế không lớn, sự cạnh tranh đương nhiên là sự tương đồng về các điều kiện sống, nhưng vẫn cần có những sự khác biệt. Với vị trí đặc thù so với khu vực lân cận như Đà Nẵng – Hội An và khu vực nhiều di sản và nằm giữa hai đầu có thể là sự khác biệt đặc thù, nhưng địa phương cần tìm được lợi thế cạnh tranh thực sự khi khai thác vị trí này thông qua sản phẩm cụ thể. Đặc biệt là sản phẩm ít gắn với quy mô kinh tế. Bên cạnh đó, Điện Bàn khó có thể cạnh tranh về tính mới so với Đà Nẵng hay tính cổ kính của Hội An nên sự khác biệt, giá trị ‘tài sản’ và điểm nổi trội có những khó khăn nhất định. Muốn tạo ra và giữ lợi thế cạnh tranh, Điện Bàn cần có các hệ thống theo dõi và đánh giá cập nhật, so sánh với các đô thị khác bằng con số và có độ tin cậy. Đó chính là các chuẩn mực phản ánh kết quả quản lý và định hướng sự hoàn thiện và cạnh tranh.

Thẩm quyền để tạo sự khác biệt cũng là điều đáng lưu ý. Do UBND thị xã Điện Bàn là tương đương cấp huyện nên có thể chưa được trao đầy đủ thẩm quyền hành chính trong quản lý quy hoạch và chiến lược, chính sách, việc xây dựng kế hoạch. Trước khi cơ chế mới về chính quyền đô thị hay Thị trưởng bầu trực tiếp đi vào cuộc sống, chính quyền cấp thị xã cần có sự liên kết và tranh thủ sự ủng hộ của cấp trên và liên minh với các đô thị lân cận một cách chủ động để đảm bảo lợi thế từ sự khác biệt của địa phương phát huy. Đương nhiên, chính quyền không trực tiếp cạnh tranh mà chỉ tạo điều kiện để doanh nghiệp phát huy khả năng cạnh tranh ở các sân chơi tiềm năng. Dù sao, thẩm quyền để thực hiện các nhiệm vụ này cũng vẫn là điểm lưu tâm trong câu chuyện chính sách và thể chế hiện nay. 

TS. Nguyễn Ngọc Hiếu - Học viện Hành chính 

Chú thích: 

  1. Trong bài viết này, khái niệm vùng và đô thị đôi khi được dung có tính thay thế bởi các đô thị mới hình thành từ huyện như Điện bàn có hình thức giống như một vùng đô thị, mặc dù vẫn là một đô thị thuộc nhóm trung bình nhỏ.
  2. Định nghĩa của tác giả.
  3. Xuôi chiều có nghĩa là chủ yếu từ mục tiêu tăng trưởng chi phối nhu cầu đầu tư và chuyển đổi đất đai, ít khi là từ đất đai tính ngược về tăng trưởng GDP.

Tài liệu tham khảo: 

  • ACVN & UN-Habitat Ky yeu hoi thao xay dung chi so do thi, Ninh Binh.
  • City mayors. Quality survey on livable city. 2014.
  • Ref Type: Online Source
  • Harris, N. 1997. Cities in a global economy: structural change and policy reactions. Urban Studies, 34, (10) 1693
  • Hieu, N. N. 2011, Building criteria for assessing urban management performance, Academy of Public Administration, Hanoi, Vietnam.
  • Hieu, N.N. 2012. Canh tranh do thi. Quy hoach do thi, 11, Hoi quy hoach va phat trien do thi Vietnam.
  • Mercer Surveys 2014, 2014-global quality-of-living report London.
  • Porter, M. Vietnam Competitiveness. 2008.
  • Ref Type: Slide
  • Robert J.Rogerson 1999. Quality of Life and City Competitiveness. Urban Studies, 36, 969-985 

(Bài đăng Tạp chí Quy hoạch Đô thị - số 17 - 2014) 


Tin liên quan:
Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

 

Thêm bình luận


Mã an toàn
Đổi mã khác

Bảng quảng cáo