Để có được một thành phố phải mất tới hàng trăm năm kiến tạo nhưng chỉ cần có một quyết định sai lầm trong một khoảnh khắc có thể sẽ phá hủy cả một thành phố.
Có những người "càng già càng bé lại", không phải ai tóc bạc cũng là người uyên thâm, ngược lại có những người càng già lại càng đáng trân trọng, càng trở thành tấm gương. Nói vậy để thấy, công trình cũng như đời người, giá trị của nó cần được xác định bởi giá trị tự thân và mối quan hệ, ảnh hưởng của nó đến môi trường, bầu không khí đô thị.
Bảo tồn di sản phải là một khoản "Đầu Tư" chứ không phải là một "Chi Phí"
Dù chưa được làm việc ở Việt Nam nhiều, nhưng tôi đã tham gia các đồ án cải tạo, tái định hướng các thành phố nhỏ hoặc thị trấn ở nước ngoài.
Có đồ án thì tôi được chủ trì nghiên cứu và đề xuất (như là nghiên cứu cho Kriens, Thụy Sĩ), có đồ án thì tôi chỉ tham gia một phần nhỏ trong kế hoạch tổng mặt bằng (như là ở làng Dornburg, Đức), có đồ án thì làm việc trực tiếp với chủ sở hữu của di sản (như là ở Parras de la Fuente, ở tận bên Mễ), có đồ án thì chỉ làm việc với Sở ban ngành địa phương (như ở cảng Shina, Tongyeong, Hàn Quốc), đủ cả.
Vai trò dù nhiều hay ít, phải thiết kế sàn lớn hay sàn nhỏ đối với tôi đều như nhau, đều phải tận tâm tận lực và coi mỗi một dịp đó là một dịp để học thêm, biết thêm.
Khi tham gia vào các đồ án này, tôi nhận ra một thực tế đó là vai trò của kiến trúc sư (KTS) chỉ là một phần nhỏ trong đồ án. Thông thường khi KTS bắt đầu tham gia nghiên cứu phương án kiến trúc thì đã có một cuộc nghiên cứu tiền dự án với quy mô lớn diễn ra trước đó.
Giai đoạn này được gọi là nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu này được thực hiện bởi những ai? Nó được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu xã hội, chủ đầu tư, chính quyền hành chính, đại diện hội đồng nhân dân, các chuyên gia về cảnh quan phức hợp đô thị, các chuyên gia về bảo tồn, đội ngũ tư vấn về địa kinh tế, địa chính trị, tư vấn về chuỗi chương trình (programming)… Các thành phần này làm việc rất nghiêm túc để đưa ra những đánh giá chi tiết cho tiềm năng của sự "phát triển" ở địa phương đó chứ người ta không bàn chuyện giữ lại cái gì hay phá bỏ cái gì. Nghiên cứu liên ngành là vậy.
Nói đến sự "phát triển", người Việt Nam thường nghĩ ngay đến việc đập đi xây mới và dễ có liên tưởng đến văn hóa tiêu dùng. Nguyên nhân do tư tưởng đặc thù cố hữu của chúng ta sau chiến tranh, cái gì cũng phải mới, phải đàng hoàng, to đẹp, đã là "cũ" thì chỉ là tàn dư, cần loại bỏ để bước vào một thời đại mới (theo những đánh giá có phần chủ quan và nhiều khi là sai lầm mà chúng ta đã phạm phải không ít lần trong lịch sử).
Đối với những nhà nghiên cứu tiền khả thi của đồ án, sự "Phát triển" được hiểu theo một hướng rất khác, họ sẽ chỉ tập trung vào chứng minh bảo tồn di sản văn hóa là một khoản "Đầu tư" chứ không phải là một "Chi phí". Nếu không chứng minh được thì họ sẽ không coi đối tượng nghiên cứu là di sản.
Tất cả các vấn đề đều phải xoay quanh kinh tế chính trị. Hơn nữa, trong nghiên cứu, các đơn vị tham gia phải đấu tranh với nhau để nhấn mạnh vai trò của phát triển để đảm bảo đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại, mà không ảnh hưởng đến khả năng các thế hệ tương lai đạt được chúng (trách nhiệm liên thế hệ trong sử dụng tài nguyên).
Cần có các nghiên cứu điển hình (Case Study) ở các tỷ lệ và quy mô khác nhau
Nói ra thì nó có vẻ đao to búa lớn, nghĩ chừng toàn những giáo sư triết học và kinh tế chính trị tham gia vào. Thực ra không phải vậy, các nghiên cứu đôi khi được giới hạn trong những phạm vi khá nhỏ. Xin kể một dẫn chứng với 2 công trình ví dụ là Chuồng bò ở Đức và Rạp Hòa Bình ở Đà Lạt. Ví dụ này không hề có ý hạ thấp giá trị của các công trình ở Đà Lạt hay nâng tầm một chuồng bò vô danh bên châu Âu. Nó chỉ ám chỉ rằng các công trình cũ cần được đánh giá, xem xét để nhận ra rằng nó có phải là một di sản hay không.
Khi tham gia vào một đồ án nọ, tôi cũng băn khoăn không biết có nên giữ lại một cấu trúc trên mặt bằng tổng thể hay không. Sau khi làm việc với nhóm nghiên cứu tiền khả thi thì được biết đó là một cái Chuồng bò cũ được xây cách đây 120 năm. Nhà rất cũ, sàn mục ruỗng, cột kèo xiêu vẹo, người thường nhìn vào chắc cũng chỉ muốn phá banh nó ra mà xây vào đấy cái quán rượu cho xong (làng này xưa có truyền thống nấu rượu và chăn nuôi gia súc).
Trích đoạn một bản vẽ ghi lại cấu trúc nguyên trạng của chuồng bò, thành phần các cấu kiện. Bên phải là nghiên cứu điển hình cho việc tôn tạo với minh họa mặt cắt tỷ lệ 1/100. (nguồn lequang-architect)
Sau khi làm việc nhiều buổi với nhóm nghiên cứu tiền khả thi. Nhóm đã đi đến kết luận sau: "Phải giữ lại cái Chuồng bò đấy như một phần di sản của làng". Các tài liệu phân tích nghiên cứu hàng trăm trang bao gồm bản vẽ, thống kê, phiếu phỏng vấn, các bảng tính toán về độ hiệu quả kinh tế, đầu tư, khả năng tạo ra lợi nhuận… được gửi cho tôi và qua đó nêu bật lên các ý sau:
Thứ nhất, nó được coi là cấu trúc nhân tạo văn hóa xuất hiện qua hơn một thế kỷ. Đó là di sản (ký ức văn hóa) của các thế hệ trong quá khứ phải chuyển sang thế hệ tương lai (được coi như trung tâm lịch sử) như một yếu tố cơ bản của bản sắc.
Thứ hai, nó được coi là cảnh quan xã hội nằm trong các mạng xã hội/ dân sự. Sự đóng góp của nó vào tổng mặt bằng nhằm làm chặt chẽ cơ cấu và quy mô của tổng mặt bằng, từ đó tạo ra yếu tố mật độ xây dựng và quyết định đến bầu không khí (density & atmostphere) của cảnh quan xã hội (không phải cứ thoáng đãng, to đẹp, khang trang đã là hay, nhiều khi phải bé, vì dân ở đấy họ quen bé rồi, to không chịu được, dân mỗi nơi một khác, không đem so dân ở làng với dân ở đô thị lớn được).
Thứ ba, nó là cấu trúc phản ánh chuyên môn, kiến thức địa phương, tinh thần kinh doanh địa phương, sự sáng tạo của người dân địa phương trong một thời điểm của quá khứ. Nó giúp cho con người ở đó khác với con người ở chỗ khác. (cấu trúc cũ trên thực tế, dù cũ nhưng đẹp, phản ánh tinh hoa kinh nghiệm xây dựng một thời – xem ảnh bên dưới).
Thứ tư, nó đóng góp vào cảnh quan tài chính - kinh tế lâu năm của địa phương bao gồm các tổ chức tín dụng địa phương, hợp tác xã, kho thóc, xưởng làm việc được thúc đẩy bởi dân địa phương và có khả năng kích thích du lịch nếu được tôn tạo với chức năng mới.
Thứ năm, các đánh giá và bản vẽ ghi lại nguyên trạng của công trình, chứng minh tính khả thi của nó khi được tái tạo trong một chức năng mới trên tổng mặt bằng.
Dựa vào 5 ý chính trên, nhóm nghiên cứu và KTS thống nhất rằng cái Chuồng bò là một thành phần không nên tách rời khỏi ‘‘phức hợp cảnh quan di sản‘‘ của ngôi làng đó (“complex urban landscape of historic urban’’) và nó phải được đối xử như một Di sản. Trên mặt bằng tổng thể, nhiều công trình khác dù rất cũ như Kho thóc, Chuồng cừu, Tháp chuông nhưng vẫn bị loại bỏ do không đảm bảo được các yếu tố tạo nên di sản như trên (chứ không phải là người ta tìm cách để giữ tất cả).
Điều này có nghĩa là đôi khi một công trình đơn lẻ thì không tạo nên di sản, di sản có thể được tạo nên bởi một tập hợp các công trình đơn lẻ, nó được gọi như trên: ‘‘phức hợp cảnh quan di sản nhân tạo‘‘. Giống như khi ta nói ‘‘cây đa, giếng nước, sân đình‘‘ thì nó gợi lên một bầu không khí, một ấn tượng cụ thể, còn nếu ta chỉ nói ‘‘giếng nước‘‘ thì nó không gây ra ấn tượng đặc thù nào cả. Bàn về di sản đôi khi nó cần quan sát từ nhiều quy mô, tỷ lệ như vậy.
Kiến trúc sư không phải là người duy nhất quyết định đến quy hoạch đô thị.
Trong giai đoạn KTS nghiên cứu giải pháp về kiến trúc, khi gặp các vấn đề cần hỗ trợ, KTS có quyền khởi động một cuộc thảo luận như phía trên hoặc anh ta sẽ được yêu cầu giải đáp các vấn đề của các bộ môn khác khi cần thiết. Nó là những cuộc đối thoại, tính toán, cân nhắc từng li từng tý một và tất cả nhằm hướng tới sự ‘’phát triển’’ chứ không phải là chuyện giữ hay bỏ, nhiều tiền hay ít tiền, đẹp hay xấu (theo chủ quan). Đó là sự dân chủ trong định hướng phát triển đô thị và loại bỏ yếu tố "lợi ích nhóm" mà chúng ta thường nhắc đến như một kẻ thù vô định.
Từ chuyện cái Chuồng bò di sản ở ngôi làng nọ, ta thấy rằng việc đánh giá tính khả thi trong bảo tồn di sản cần được lập nghiên cứu nghiêm túc và phải rất thực tế, không mơ hồ, vô định, không đem ân oán cá nhân vào, nếu đem ân oán cá nhân vào thì người ta đã chẳng giữ lại đấu trường La Mã làm gì.
Việc giữ lại hay phá dỡ cũng không được phép duy ý chí mà phải liên tục kiểm chứng các nhận định thông qua các tình huống nghiên cứu điển hình. KTS tham gia vào đồ án cũng nên thường xuyên đặt câu hỏi, thắc mắc để được lắng nghe và giải thích về định hướng phát triển của nhóm tiền dự án (bởi có rất nhiều vấn đề nằm ngoài chuyên môn của KTS).
Thời đi học, có những lúc thực hành các ‘‘biện pháp can thiệp‘‘ trong các đô thị cổ, tôi thường sa vào lạm dụng kĩ năng thiết kế mà không làm đánh giá khả thi. Thầy giáo tôi thường bảo ‘‘người ta mất 500 năm mới có được một thành phố, sờ vào cái 500 năm đấy, mày nghĩ mày thiết kế được gì hả con?”. Thầy này thì nức tiếng Thế giới, đạt giải tương đương giải Nobel, chuyên môn thì khỏi phải bàn nhưng cũng phải đến sau này khi thực hành thực tế rồi tôi mới nhận ra là thầy dạy phải lắm.
Chúng ta có thể có nhiều kiến trúc sư giỏi, có cá tính thiết kế nhưng nếu ta đặt họ vào một bộ máy, một cách vận hành sai lầm thì sản phẩm ta thu lại vẫn có thể tồi. Kiến trúc sư không phải là tối cao mặc dù cái công việc mà họ làm dễ khiến người ta liên tưởng đến vị thế đó. Ở nhiều nước đang phát triển, kiến trúc sư thường rất giỏi đưa ra các giải pháp mà đôi khi họ chưa nghĩ đến việc đặt ra các câu hỏi hoặc nghi ngờ các câu hỏi. Và trong nhiều trường hợp, người ta vận dụng tất cả những kĩ năng tốt nhất mà họ có để đi tìm lời giải đúng cho một câu hỏi sai.
Hình ảnh hiếm hoi mà chúng ta lưu giữ được về khu vực quảng trường Hòa Bình ở Đà Lạt, không biết rằng các nghiên cứu tiền khả thi đã được thực hiện hay chưa. Cho đến nay dư luận nên cần quan tâm về vấn đề này.
Ở trường hợp khu Nhà hát Hòa Bình của Đà Lạt, mặc dù chưa được xem nghiên cứu tiền khả thi, nhưng khi nhìn sản phẩm cuối thì cá nhân tôi đoán rằng nghiên cứu tiền khả thi có thể còn sơ sài và có lẽ người ta phải cẩn trọng hơn. Các KTS quan sát viên, các KTS trực tiếp tham gia vào đề tài và cả các đơn vị nghiên cứu tiền khả thi do đó cũng cần có những thảo luận dân chủ hơn để rộng đường dư luận. Suy cho cùng di sản thì đáng quý nhưng cũng chính là do con người tạo nên chứ không phải ở trên trời rơi xuống.
Ông thầy già hay nặng lời rằng phải mất 500 năm mới có được một thành phố, đấy là vì ông ấy không muốn nói rằng để phá hủy một thành phố, người ta chỉ cần có một quyết định sai lầm trong một khoảnh khắc mà thôi.
KTS Lê Quang
(TheLEADER)
- Đà Nẵng: Quy hoạch đô thị nhìn từ các dự án lấn sông, lấn biển
- Không thể “bay bổng” với tốc độ cao!
- Cấm xe máy: cách sửa sai tùy tiện
- Đừng “rút xương sống” cấu trúc lịch sử của Đà Lạt
- TPHCM: làm gì để xây dựng trung tâm AI?
- "Quy hoạch Đà Lạt không chỉ chăm chăm phục vụ du khách"
- Đà Lạt dời dinh tỉnh trưởng, xóa rạp Hòa Bình để làm những gì?
- Cấm xe máy: Mới tập trung phần ngọn, chưa giải quyết phần gốc
- Nền tảng để phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam
- Kinh tế đất đai: Những bất cập trong giá đất và hệ lụy